MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ*
- Mở đầu
Thế giới tồn tại hai hệ thống chính là các nước XHCN và các nước TBCN, từ
sau khi hệ thống Liên Xô các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu xụp đổ chiến tranh
lạnh kết thúc sự đối đầu giữa hai cực không còn tuy nhiên lại nảy sinh nhiều
vấn đề khác liên quan. Trong thời đại hiện nay khi mà công nghệ thông tin, quân
sự phát triển chủ nghĩa khủng bố quốc tế đang tung hoành mạnh mẽ đe dọa lớn đến
ổn định kinh tế xã hội, các vấn đề môi trường toàn cầu đặt vấn đề hợp tác chung
trên toàn cầu. vì vậy, hội nhập quốc
tế là một tất yếu khách quan của quá trình phát triển, nó lôi cuốn các quốc gia
cùng tham gia sân chơi trước nguy cơ bị loại trừ khỏi nền kinh tế toàn cầu. Năm
1995 Việt Nam gia nhập ASEAN và năm 2007 chính thức trở thành thành viên của
WTO là hai dấu mốc hội nhập quan trọng. Sau thời gian hội nhập và tiến trình mở
cửa, Việt Nam đạt được một số thành tựu nhất định tuy nhiên cái gọi là tham gia
thực sự vào sân chơi của thế giới còn nhiều vấn đề phải bàn. Trong bối cảnh suy
thoái kinh tế, vấn đề nợ công đang nổi lên, đặt ra thách thức cho việc tái cấu
trúc nền kinh tế. Với tư thế hội nhập Việt Nam có thể ứng phó như thế nào để
giữ vững ổn định trong nước. Một câu hỏi nữa cũng được đặt ra là đến khi nào
Việt Nam thực sự tận dụng được cơ hội của mình và phát huy tiềm lực sẵn có để
có thể thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình hiện nay.
- Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm toàn cầu hóa (globalization) được xuất hiện đầu tiên trong từ
điển của Anh vào năm 1961 và được sử dụng rộng rãi từ những năm 90 của thế kỷ
XX. Các vấn đề lý luận của nó được xem xét trong nhiều lý thuyết. Đầu tiên là thuyết
Trọng thương đặt nền móng cho sự phát triển của thương mại quốc tế. Sau đó là
các thuyết về chủ nghĩa tự do thương mại cả Adam Smith và David Ricardo cung
cấp cơ sở cho việc phân tích, giải thích, dự đoán quá trình phát triển của
thương mại toàn cầu. Thuyết của Friedrich List về Bảo hộ mậu dịch. Thuyết chức
năng thể chế phát triển trong vấn đề liên quan đến chính trị. Sau chiến tranh
thế giới thứ I là thuyết hiện thực, học thuyết Mác-Lênin. Các học thuyết này là
nền cơ sở lý luận cho toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan gắn với xu thế phát triển của
nền sản xuất xã hội, kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội ngày sâu rộng. Giai đoạn hiện tại nó gắn với chủ nghĩa tư bản
và tư thế nước lớn – nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia, tập đoàn tài chính
quốc tế. Có thể hiểu Toàn cầu hoá là quá
trình hình thành một chỉnh thể thống nhất toàn thế giới. Đó là quá trình ảnh
hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế và vận hành
trong một trật tự hệ thống toàn cầu. i, Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ
ngày càng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực: chính trị, văn hóa, giáo dục, môi
trường, khoa học, mà kinh tế là nội dung
cơ bản đầu tiên. ii, nổi lên vai trò và tư thế của các nước lớn trong việc chi
phối toàn cầu hóa thể hiện ở việc lợi dụng sức ép về kinh tế, chính trị, quân
sự, thúc đẩy toàn cầu hóa nhanh chóng cũng như đưa ra các quy tắc ứng xử mang
tầm quốc gia hay quốc tế hóa các ý tưởng toàn cầu hóa theo hướng có lợi cho mình.
iii, xu hướng tự do hóa kinh tế song song với xu hướng bảo hộ mậu dịch, toàn
cầu hóa đi với khu vực hóa. iv, chính vì thế toàn cầu hóa gia tăng bất bình
đẳng giữa các quốc gia, đẩy khoảng cách giầu nghèo giữa các quốc gia ngày một
xa.
Hội nhập quốc tế chủ động gắn kết vào nền kinh tế thị trường và tham gia
vào sân chơi chung về thể chế. Hình thái hội nhập bao gồm hợp tác song phương
giữa 2 nền kinh tế và hợp tác đa phương thông qua các hiệp định.
- Lịch sử của hội nhập quốc tế của Việt
Nam
Ngay từ năm 1946 Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về hội nhập
quốc tế. Điều này chỉ thực sự đi vào hiện thực kể từ sau đổi mới. Sau 25 năm
đổi mới, tiến trình hội nhập của Việt Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Có
thể kể đến một vài mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam.
-
Năm 1988 Việt Nam bắt đầu mở cửa, ngoại thương khởi sắc
từ đây.
-
Năm 1995 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
ASEAN. Tham gia vào sân chơi của khu vực Đông Nam Á
-
Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
WTO. Thực sự tham gia vào kinh tế toàn cầu.
Nếu so sánh với Trung Quốc, Việt Nam dường như kém may mắn hơn trong quá
trình hội nhập. Chỉ vài năm ngay sau 2 dấu mốc hội nhập của Việt Nam là khủng
hoảng kinh tế thế giới. Lần đầu tiên chỉ sau 2 năm gia nhập ASEAN, khủng hoảng
kinh tế bắt đầu từ Thái Lan đã lan tỏa tới nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, mạnh mẽ nhất là đối với Indonexia, Malaixia và các quốc gia khác trong
khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Một cường quốc về kinh tế như Nhật Bản
cũng bị ảnh hưởng nặng nề trong cuộc khủng hoảng này. Chỉ trong 1 năm xảy ra
khủng hoảng 12/1997 đến 10/1998 đồng Bath Thái Lan bị giảm giá 108%, tiền
Indonexia mất giá tới 3.5 lần, đồng Yên giảm giá 23%. (trích nguồn.). Lần thứ
2, đầu năm 2007 Việt Nam chỉ có hơn 1 năm ngắn ngủi để làm quen và thu lợi từ
hội nhập. Cuối 2008 bắt đầu từ khủng hoảng tài chính của các ngân hàng Mỹ, làn
sóng này đã nhanh chóng lan rộng tới các trung tâm kinh tế khác EU, Nhật Bản.
Hiện tại là vấn đề nợ công ở Châu Âu, tái cấu trúc nền kinh tế…
- Các khía cạnh của hội nhập
4.1 Hội nhập về kinh tế
Trong nền kinh tế trí thức hiện này toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh
tế thế giới là một xu thế tất yếu khách quan mà bất kể quốc gia nào nếu không
muốn chạy sau thế giới đều tự nguyện tham gia. Mọi “đường đi nước bước” của mỗi
quốc gia suy cho cùng cũng chứa đựng đằng sau đó một mục tiêu nhất định về mặt
kinh tế. Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng nhất của
hội nhập quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào
các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó mối quan hệ giữa các
quốc gia thành viên có ràng buộc theo những qui định chung của khối. Đương
nhiên các quốc gia này tự nguyện mở của nền kinh tế, tham gia vào các định chế,
các nguyên tắc, hiệp ước về kinh tế tài chính để thuận lợi trong tự do hóa
thương mại, đầu tư cũng như các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Và như thế nó
tạo nên một nền kinh tế toàn cầu thống nhất và hoàn chỉnh trong đó chứa đựng
mối quan hệ biện chứng với nhau. Nền kinh tế mỗi quốc gia thành viên vừa có vai
trò nhất định vừa chịu ảnh hưởng bởi những tác động chung có tính toàn cầu. Hội nhập kinh tế được thể hiện thông qua
mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, vươn tới quy mô toàn thế giới,
đạt trình độ và chất lượng mới
Về bản chất hội nhập kinh tế là
việc đặt ra các mối quan hệ hợp tác để phát triển. Nó là sự đan xen, gắn bó và phụ
thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia và thế giới thông qua quá
trình vừa hợp tác vừa đấu tranh gay gắt. Hội nhập kinh tế để từng bước xóa bỏ
các rào cản về thương mại, đầu tư giữa các quốc gia để có được thị trường chung
thống nhất, tự do hóa thương mại kinh tế. Mục tiêu các nhất là có được thị
trường chung thống nhất trên toàn thế giới vận hành theo cơ chế chung trên cơ
sở bình đẳng giữa các quốc gia. Trong tư thế nước nhỏ Việt Nam tham gia hội
nhập lại đặt vấn đề bảo vệ nền kinh tế trong nước trước cường quốc để không bị
“nuốt chửng”.
4.1.1
Hội nhập
kinh tế là tất yếu khách quan
Kinh tế thế giới phát triển qua nhiều giai đoạn có lúc thăng lúc trầm.
Trước tiên là trao đổi hàng hàng, sau đó quan hệ chuyển sang hàng- tiền- hàng.
Vai trò của vật ngang giá chung ngày càng được khẳng định trên thị trường, tạo
điều kiện thuận lợi cho mậu dịch tự do.
Đi cùng với nó là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì phân công lao động ngày càng cao,
hợp tác hóa ngày càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và kinh
tế. Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hóa của
nó vượt ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia, nó lan tỏa ra các quốc gia, khu
vực và thế giới. Ngoài ra tự do hóa thương mại đang trở thành một xu thế tất
yếu được xem là một nhân tố quan trọng để thúc đẩy buôn bán, giao lưu giữa các
quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nâng cao mức sống của mỗi quốc gia. Rõ
ràng không có quốc gia nào có khả năng đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của mình chỉ
bằng vốn nội lực mà không cần tới mối quan hệ với bên ngoài. Sự chậm trễ trong
đóng cửa nền kinh tế, thực hiện bế quan tỏa cảng phải trả giá bằng chính sự tụt
hậu và suy giảm sức mạnh trên mọi mặt. Nền kinh tế thị trường đang tỏ ra có
nhiều ưu thế vướt trội nảy sinh yêu cầu của một nền kinh tế chung là điều dễ
nhận thấy.
Nhận thức rõ xu hướng tất yếu của sự phát triển đó, các quốc gia trong
chiến lược phát triển của mình đều có những điều chỉnh nhất định phù hợp với
hướng vận động chung. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cũng phải cân đối
giữa cái chung và cái riêng để có thể “hòa
nhập nhưng không bị hòa tan”
4.1.2
Nội dung của
hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế được thực hiện thông qua các chương trình chung của các
khối nước, các tổ chức để cùng phát triển, đó có thể là các hợp tác đơn phương,
song phương hay đa phương. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc thể hiện thông
qua nội dung của các liên kết và hợp tác giữa các chủ thể kinh tế. Như vậy, nội
dung của nó có thể được xem xét dưới góc độ của các chủ thể kinh tế và dưới góc độ ý nghĩa của các liên
kết đó.
- Dưới cái nhìn về chủ thể kinh tế
Trong nền kinh tế thế giới chúng ta nhận thấy có thể chia ra các chủ thể
kinh tế như sau: Mức thấp nhất là các công ty, các doanh nghiệp không được coi
như những chủ thể có đầy đủ về mặt chính trị, pháp lý như quốc gia độc lập. Thứ
2 đó là nền kinh tế của các quốc gia độc lập. Thứ 3 đó là các tổ chức và liên
kết kinh tế quốc tế. Và cuối cùng là các công ty xuyên quốc gia, công ty đa
quốc gia, công ty siêu quốc gia, chính vì vai trò to lớn của nó trong phân công
lao động quốc tế mà được coi là một chủ thể đặc biệt trong nền kinh tế thế
giới.
Tùy theo mức độ các liên kết này có thể là nhỏ bé giữa các doanh nghiệp
giữa các quốc gia với nhau trong các khâu nhất định của quá trình sản xuất từ
đầu vào đến đầu ra của sản phẩm. Liên kết lớn hơn đó là liên kết giữa các quốc
gia với nhau, nó liên quan đến chính phủ các quốc gia, quyền quyết định cuối cùng thuộc về quốc gia đó.
Lớn nhất là liên kết siêu quốc gia, điều kiện của các hiệp ước thường mang tính
chất bắt buộc, đôi khi nó “xâm phạm” đến tính độc lập của quốc gia thành viên.
- Dưới góc độ của các liên kết kinh tế.
Theo nội dung của các liên kết có thể chia thành các lĩnh vực: Điều chỉnh
chính sách; hiệp định về thuế quan và phi thuế quan; Cải cách quản lý kinh tế;
liên kết thương mại. Về cơ bản các vấn đề này được biểu hiện thông qua các kí
kết trong liên kết khu vực và quốc tế.
Điều chỉnh chính sách trong các liên kết này các bên tham gia chấp nhận
thay đổi các chính sách của mình trong một số vấn đề nhất định với đối tác và
với nước thứ 3. Đó có thể là chính sách liên quan đến quản lý vĩ mô nền kinh
tế, hiệp định về gỡ bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan đối với hàng hóa, đầu
tư nước ngoài, lộ trình cắt giảm thuế hay thực hiện các liên kết thương mại
song phương, đa phương trong việc mở cửa
thị trường tự do.
v
Tổ chức thương mại thế giới WTO
WTO là tổ chức thương mại toàn cầu ra đời trên cơ sở hiệp định thuế quan
GATT với 6 chức năng chính: Quản lý hiệp định về thương mại quốc tế; là diễn
đàn cho các vòng đàm phán thương mại; Giải quyết các tranh chấp thương mại;
Giám sát các chính sách thương mại; Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các
quốc gia đang phát triển; Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác. Trên cơ sở của
5 nguyên tắc trong đó nhấn mạnh đến không phân biệt đối xử, cạnh tranh bình
đẳng, tự do thương mại thông qua đàm phán, có đãi ngộ ưu tiên đối với các thành
viên đang phát triển. Thực tế hoạt động của WTO cũng cho thấy nó chưa đảm nhận
tốt vai trò của thúc đẩy tự do hóa thương mại đa phương trong khi đó số lượng
thành viên gia tăng nhanh chóng (năm 2010 là 150 thành viên) khiến cho các vòng
đàm phán ngày càng trở nên phức tạp. Các chương trình nghị sự quá lớn khiến các
quốc gia tham gia hội nhập thương mại không đồng bộ trong nhiều lĩnh vực tức
chưa thực sự tạo được sân chơi chung toàn cầu. Trong khi đó có một số quy tắc
đi sâu và một số các lĩnh vực nhảy cảm hơn, điều này dẫn đến các xung đột lợi
ích giữa các nước thành viên.
v
Khu vực mậu dịch tự do FTA (Free Trade Area)
Khu vực mậu dịch tự do là liên kết giữa 2 hay nhiều quốc gia nhằm tự do
buôn bán một số mặt hàng nào đó, hình thành nên thị trường thống nhất giữa các
nước nhưng vẫn thực hiện chính sách thuế quan độc lập với các nước ngoài khối.
Đây là mức độ thấp nhất trong hội nhập kinh tế khu vực. Ở hình thức này tính
thống nhất không cao, sự ràng buộc giữa các bên liên quan nhìn chung còn lỏng
lẻo. Trong liên kết này thực hiện chương trình chung về vấn đề thuế xuất nhập
cảng, đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho hàng hóa xâm nhập vào nhau. Tuy
nhiên từ vào điều kiện từng quốc gia mà đưa ra các giải pháp về thuế, phi thuế
phù hợp trên cơ sở nguyên tắc chung. So với tiến trình tham gia WTO cần có lộ
trình rõ dàng và từ thì mở cửa trong FTA diễn ra nhanh hơn, mức thuế trong WTO
bao giờ cũng cao hơn so với mức thuế của FTA. Nó thực hiện tốt hơn vai trò thúc
đẩy tự do hóa thương mại, nó là phản ứng nhanh của các quốc gia trong quá trình
hội nhập trước phản ứng chậm chạm của vòng Doha. Sau năm 1995 là bùng nổ của
các FTA. Cho đến 2010 đã cps 380 FTA đã được ký kết, hiện còn 204 FTA còn hiệu
lực, có đến 50% FTA diễn ra ngoài WTO.
Các kiên kết FTA tiêu biểu có: NAFTA (khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ) ban
đầu có Hoa Kỳ và Canada, năm 1995 gia nhập thêm Mehico, xu hướng muốn mở rộng
lên 34 quốc gia thuộc Mỹ Latinh; AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN) gồm 10
quốc gia thành lập năm 1993 và đang ngày càng mở rộng; CAFTA (ASEAN + Trung
Quốc); CE-FTA (khu vực mậu dịch tự do Trung Âu) thành lập năm 1995 với 5 nước
thành viên. Ngoài ra còn có rất nhiều các FTA được xây dựng giữa các quốc gia
và khu vực khác.
v
Liên minh hải quan (Customs Union)
Là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên loại bỏ thuế trong
thương mại nội bộ và thiết lập một thuế quan chung của các nước thành viên với
các quốc gia ngoại khối. Hình thức này chặt chẽ hơn so với FTA, khác FTA về cơ
bản ở quan hệ với nước thứ 3. Một số các liên minh đã được thành lập như: Liên minh
hải quan Trung Phi thành lập năm 1964 gồm 6 nước thành viên (Camerun, Trung
Phi, Chad, Công, Guine xích đạo, Gabon); Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) từ năm
1968 giai đoạn sau đó nó phát triển lên thành thị trường chung (những năm 1980)
v
Thị trường chung (Economic Common)
Là hình thức phát triển cao hơn của liên minh hải quan. Trong đó các quốc
gia thực hiện di chuyển hàng hóa, tư bản và sức lao động giữa các nước thành
viên với nhau, xây dựng cơ chế chung điều tiết thị trường của các nước thành
viên. Từ đó tiến tới xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại chung với nước thứ
3. Ví dụ thị trường chung châu Âu (ECM –Economic Common Market), thị trường
chung Trung Mỹ (CACM), thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR)
v
Liên minh kinh tế (Economic Union)
Liên minh kinh tế mang đầy đủ đặc điểm của Thị trường chung nhưng thêm
một số vấn đề khác bao gồm: Thiết lập bộ máy tổ chức, điều hành, quản lý kinh
tế chung thay thế phần nào đó cho chính phủ nước thành viên từ đó có chính sách
phát triển kinh tế đối ngoại và kinh tế nội địa vượt ra khỏi giới hạn lãnh thổ
quốc gia, thực hiện phân công lao động sâu sắc. Liên minh kinh tế điển hình
nhất đó là EU
v
Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Đây là hình thức liên kết kinh tế cao nhất tiến tới thành lập một quốc
gia kinh tế chung của nhiều nước với nhau bao gồm chính sách kinh tế, đối ngoại
và ngoại thương chung. Hình thành một đồng tiền chung thống nhất giữa các nước
thành viên, qui định chính sách lưu
thông tiền tệ chung; Quỹ tiền tệ chung; ngân hàng chung thay thế cho ngân hàng
quốc gia; Chính sách tiền tệ chung trong khối và với các tổ chức tiền tệ quốc
tế. Từ đó tiến tới xây dựng hệ thống pháp luật chung điều tiết hoạt động sản
xuất, hệ thống quân đội và phòng thủ chung. Liên minh EU đã thực hiện đồng tiền
chung EURO từ năm 1999 tuy nhiên đi tới đó là con đường dài gian khổ, cho đến
nay vẫn có một số quốc gia thành viên của EU không tham gia đồng tiền chung EU
như Anh, Đan Mạch, Thụy Điển. Và thực tế liên minh xây dựng trong pháp luật
chung , quân đội của EMU cũng còn nhiều
vấn đề phải bàn bạc do chênh lệch quá lớn giữa các quốc gia thành viên.
Như vậy các mức độ liên kết khác nhau của các chủ thể kinh tế giúp cho
các quốc gia hội nhập nhất định vào nền kinh tế chung của khu vực và thế giới.
Các liên minh thực hiện thông qua kí kết các hiệp định song phương đa phương
trên lĩnh vực về thuế quan, chính sách quản lý, thương mại.
4.1.3
Tác động của
hội nhập kinh tế
Hội nhập về kinh tế hình thành nên một “sân chơi” chung cho các quốc gia.
Tham gia vào nền kinh tế thế giới, hội nhập được vào đó không phải là “được
trải thảm đỏ” cho đi. Việc có phát triển kinh tế quốc gia được hay không phụ
thuộc lớn vào bản thân vấn đề “biết mình biết ta” đưa ra được chính sách quản
lý vĩ mô nền kinh tế, hoạch định chính sách phù hợp. Sự phụ thuộc của trong nền
kinh tế chung luôn đặt ra những thời cơ và thách thức khác nhau giữa nhóm nước
phát triển và đang phát triển.
a.
Thời cơ
i, Tạo những khả năng phát triển kinh tế
Hội nhập tạo không gian kinh tế rộng
mở,mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, làm quan hệ buôn bán, trao đổi hàng
hoá và dịch vụ giữa các nước tăng lên mạnh mẽ từ đó kích thích kinh tế phát
triển. Thông qua mở rộng thương mại giúp các quốc gia tiết kiệm được một khoản
nhất định trong chi phí quản lý, hải quan xuất nhập khẩu cũng như trong nhiều
dịch vụ khác cùng với nguồn vốn đầu từ quốc tế trên các lĩnh vực sẽ là tiền đề
góp phần vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực tế đã
chứng minh trong thời kỳ 1970-1990 các nước đang phát triển có nền kinh tế mở
cửa thì tỷ lệ tăng GDP trung bình hàng năm là 4,5% một năm, ngược lại các nước
có nền kinh tế đóng chỉ tăng 1%/ năm.
Về cơ cấu kinh tế có thể phát triển
theo hai hướng. Thứ nhất, cơ cấu kinh tế ngày càng đa dạng, có sự góp mặt đầy
đủ của các ngành kinh tế. Thứ hai, tính chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc, cơ
cấu kinh tế sẽ ngày càng mất cân đối (như trường hợp của một số quốc gia vùng
Caribe và châu Phi). Yêu cầu của phát triển bền vững lại được đặt ra. Một nền
kinh tế không đồng bộ, thiếu đi ngành sản xuất quan trọng mang tính chiến lược
quốc gia sẽ làm cho nước đó nhanh chóng bị dìm xuống nếu khủng hoảng kinh tế
khu vực hay thế giới xảy ra.
ii, Khai
thác lợi thế so sánh
Tham gia vào sân chơi thế giới rộng lớn tạo điều kiện để mở đa dạng hàng
hóa và các sản phẩm dịch vụ nói chung mặt khác nó cũng đặt ra vấn đề cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế tham gia trong sản xuất hàng hóa. Phân công lao
động càng sâu sắc, tính chuyên môn hóa sản xuất càng cao. Theo thuyết lợi thế
so sánh của David Ricardo (1772-1823) các quốc gia sẽ ưu tiên sản suất theo lợi thế so sánh của mình để thu
được lợi ích cao nhất trong giao dịch thương mại. Và như thế khi hội nhập, khi
mở cửa nền kinh tế các sản phẩm trong nước sẽ đứng trước cạnh tranh lớn của các
mặt hàng cả về chất lượng lẫn giá cả. Nếu như đối với các nước công nghiệp sản
phẩm lợi thế là các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao, các mặt
hàng về điện tử, các lĩnh vực về quân sự về khoa học vũ trụ trong khi đó các
nước nông nghiệp sản phẩm ưu thế là các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm của công
nghiệp nhẹ. Hội nhập sẽ giúp 2 bên giải quyết vấn đề về lợi ích kinh tế. Song
bên cạnh đó cũng thấy nảy sinh vấn đề liên quan đến “công bằng”
Đối với các sản phẩm hàng hóa trong nước phải phát huy tối đa lợi thế có
sẵn. Việc xác định mặt hàng chiến lược trong sản xuất và hướng xuất khẩu cũng
cần phải xem xét trên một số mặt: (1) Lợi thế so sánh dài hạn; (2) qui mô kinh
tế đặt trong quy hoạch liên vùng (để đảm bảo giảm chi phí cố định); (3) dung
lượng thị trường (để đảm bảo thị phần và tăng thị phần mà không bị các biện
pháp tự vệ, điều tra chống bán phá giá); (4) mức giảm thuế và lộ trình giảm
thuế theo cam kết (để đo sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu). Việc xác định
hàng xuất khẩu nên phải tính đến chu kỳ sống của sản phẩm. Lý thuyết chu kỳ
sống của sản phẩm xem xét khả năng xuất khẩu tiềm tàng của sản phẩm gắn liền
với 4 chu kỳ sống của sản phẩm là: (1) giai đoạn đổi mới sản phẩm; (2) giai
đoạn tăng trưởng sản phẩm; (3) giai đoạn chín muồi, bão hòa; (4) giai đoạn suy
giảm và triệt tiêu.
iii,
Thúc đẩy sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới.
Hội nhập càng sâu rộng thì tính chuyên môn hóa
và phân công lao động quốc tế càng mạnh mẽ. Xu thế hội nhập hiện nay tạo ra sự
liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và thống nhất nền kinh tế toàn
cầu do đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường hợp tác lao động, phát
huy tốt tiềm năng có sẵn của mình.
Trước hết đi cùng với nó là việc mở ra
thị trường xuất khẩu lao động giữa các nước. Dòng xuất khẩu lao động di chuyển
theo 2 hướng khác nhau. Thứ nhất là
dòng lao động trình độ thấp (lao động cơ bản) sang các nước khác. Đây là thời
cơ lớn cho một nước đông dân như Việt Nam giải quyết vấn đề việc làm cũng như
cơ hội nâng cao hơn nữa chất lượng lao động, tăng nguồn thu quốc gia. Thứ hai đó là dòng di cư “chất xám” từ
các quốc gia với nhau. Nếu trước kia người ta nói nhiều đến dòng chảy sang các
nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản thì nay mở thêm dòng mới sang các quốc
gia đang phát triển khác để tìm kiếm cơ hội phát triển. Bên cạnh đó là đóng vai
trò nổi bật trong sự phân công lao động quốc tế hiện nay là các công ty xuyên
quốc gia. Hội nhập tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia có thể sử dụng
lao động trên toàn thế giới mà không làm tăng làn sóng di dân từ nước này sang
nước khác.
iv,
Lưu chuyển các nguồn vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý phục vụ phát
triển sản xuất
Hội nhập kinh tế tạo sự di chuyển đầu tư bao
gồm vốn, khoa học công nghệ… trên quy mô toàn cầu với tốc độ và quy mô ngày
càng lớn, nhờ đó các quốc gia có cơ hội mở rộng sản xuất. Luồng đầu tư quốc tế
có thể là giữa các quốc gia có trình độ tương đương đáng chú ý là giữa các nước
phát triển với nhau (lúc này thấy rõ mục đích thao túng lẫn nhau của các tâp
đoàn kinh tế lớn) hoặc giữa các nước phát triển sang các nước đang phát triển,
chậm phát triển. Đầu tư quốc tế giai đoạn hiện này chủ yếu là từ quốc gia phát
triển, tập đoàn kinh tế lớn sang các quốc gia chậm phát triển hơn. Điều đó còn
cho thấy sự thâm nhập, đan xen và bổ sung lẫn nhau giữa nền kinh tế các quốc
gia ngày càng tăng lên. Từ đó tạo điều kiện tối đa cho quá trình phổ biến khoa
học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý trên khắp thế giới.
v, Hội nhập mở rộng phạm vi hoạt động của tư bản quốc tế
Do quá trình tự do hoá thương mại, đầu tư lưu
thông các nguồn lực sản xuất, sự thâm
nhập vào nhau, phụ thuộc nhau giữa các nền kinh tế mà hoạt động của tư bản quốc
tế không ngừng mở rộng. Các chính phủ, các tổ chức tư bản nhất là các tập đoàn
tư bản tài chính quốc tế khổng lồ như IMF, WB... không ngừng mở rộng
phạm vi hoạt động và các hình thức kinh doanh, từ đầu tư sản xuất, dịch vụ, hỗ
trợ phát triển đến đầu tư chứng khoán ... để thu lợi nhuận tối đa.
b.
Thách thức
i,
Gia tăng bất bình đẳng kinh tế
Trong một sân chơi chung “mạnh ai nấy thắng” chắc
chắn thiệt thòi sẽ luôn thuộc về kẻ yếu. Các quốc gia tự nguyện hội nhập vào
nền kinh tế thế giới tạo ra một thị trường rộng lớn cho tất cả các bên tham gia
dường như đó là nơi rất “công bằng” nhưng không phải tất cả các nước có trình
độ phát triển như nhau mà vì thế yếu kém về kinh tế sẽ thường bị “bắt nạn” ở
chỗ này hay chỗ khác. Rõ ràng với tiềm lực to lớn về tài chính, khoa học công
nghệ, quân sự… và trong khi quan hệ kinh tế còn nhiều bất bình đẳng thì lợi thế
của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế dồn hết vào các nước phát triển. Do vậy
thách thức đặt ra đối với hội nhập kinh tế là vấn đề lớn của các quốc gia đang
phát triển như Việt Nam hơn là đối với
các quốc gia phát triển.
ii, Thông qua
tự do thương mại và mở cửa nền kinh tế sẽ làm tăng tính phụ thuộc của các quốc
gia đặc biệt là giữa các nước chậm
phát triển với các nước khác về vốn, khoa học công nghệ, thị trường cũng như
các vấn đề khác. Bên cạnh đó tự do thương mại cũng có thể ảnh hưởng xấu đến cán
cân vãng lai, gia tăng nợ nước ngoài, nguy cơ nợ xấu. Sự lệ thuộc vào kinh tế
dẫn đến nguy cơ lệ thuộc vào chính trị gây nguy hại đến tính chủ quyền của các
quốc gia.
iii, Cạnh tranh khốc liệt mà kẻ yếu sẽ bị
đào thải
Hội nhập là quá trình vừa hợp tác
vừa cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thế kinh tế, luôn đặt ra thách thức lớn đối
với quốc gia các năng lực cạnh tranh thấp bao gồm cả năng lực cạnh tranh quốc
gia, doanh nghiệp và hàng hóa đều thấp. Năng
lực cạnh tranh quốc gia gồm một hệ thống chỉ số - cũng còn gọi là chỉ số năng
lực cạnh tranh tổng hợp (GCI - Global Competitiveness Index) được Diễn đàn Kinh
tế thế giới (WEF) công bố lần đầu tiên trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn
cầu năm 2004 - 2005. Các chỉ số này được phân làm chín nhóm, còn được gọi là
chín trụ cột thể hiện năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Chín trụ cột
đó gồm: (1) thể chế; (2) kết cấu hạ tầng; (3) kinh tế vĩ mô; (4) y tế và giáo
dục cơ bản; (5) đào tạo và giáo dục bậc cao; (6) hiệu quả thị trường; (7) mức
độ sẵn sàng về công nghệ; (8) trình độ kinh doanh; (9) đổi mới và sáng tạo. Với
những nền kinh tế non kém, đứng trước cuộc cạnh tranh khốc liệt sẽ dễ đến phá
sản, các doanh nghiệp trong nước nếu không đứng vững được thì hoặc sẽ bị phá
sản hoặc sẽ bị thao túng bởi các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia hoặc
nếu không cũng sẽ bị “chìm” dần trong vụ kiện vô lý.
Hội nhập còn dẫn đến khủng hoảng cơ
cấu việc làm và phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng lên ở những nước đang phát
triển. Việc chuyển các công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển hay chậm phát triển làm cho tình trạng kinh tế các nước đó duy
trì lâu dài tình trạng lạc hậu và bị lệ
thuộc vào nước ngoài. Hội nhập còn gây ra tình trạng chảy chất xám từ các nước
đang phát triển, các nước thuộc thế giới thứ ba sang các nước phát triển qua
dòng di cư của những trí thức, sinh viên và lao động có tay nghề cao. Tình
trạng này gây trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế.
vi,
Sự bành trướng tập đoàn tư bản tài chính, công ty xuyên quốc gia
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế gắn liền với sự gia
tăng “chân nhện” của các tập đoàn và các công ty xuyên quốc gia (MNC, TNC). Các
công ty đa quốc gia thường có công ty mẹ đặt ở 1 quốc gia (cũng là chủ sở hữu)
và các công ty con trên khắp thế giới. Các công ty này đều là các công ty tư
bản có nguồn ngân sách lớn, thực hiện sản xuất, tiêu thụ trên qui mô toàn cầu
với chính sách “lấy thế giới là nhà máy, lấy quốc gia làm phân xưởng” qua đó
tiến hành phân công lao động quốc tế có chủ định. Giữ vai trò lớn trong đẩy
mạnh thương mại quốc tế, tăng cường vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nguồn lực
tạo việc làm, thúc đẩy nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. TNC với
khoảng 60 nghìn công ty và 500 nghìn chi nhánh trên khắp thế giới chiếm khoảng
40% GDP, kiểm soát 60% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, 90 % thành quả nghiên cứu
và chuyển giao công nghệ. Ở thời kì đầu các công ty này diễn ra quá trình hợp
nhất theo chiều dọc hay chiều ngang nhưng cho đến nay làn sóng sát nhập hỗn hợp
và xu hướng thôn tính lẫn nhau đã trở nên phổ biến trên khắp thế giới ở cả các
nước phát triển và đang phát triển, trên tất cả các lĩnh vực từ đó hình thành
nên hệ thống khổng lồ trên toàn thế giới.
Với tiềm lực của mình, luôn tìm cách mở rộng ở mức tối đa có thể, với
kinh nghiệm lâu đời trong sản xuất kinh doanh, lão luyện trong bành chướng thế
lực kinh tế, nó thực sự là đối thủ đáng gườm đối với các nền kinh tế mới mở cửa
đang còn non nớt. Hội nhập gắn liền với cạnh tranh và hợp tác, hai lĩnh vực này
luôn song song đi cùng với nhau. Và như vậy đối với các doanh nghiệp mang tầm
quốc gia hợp tác phải khôn khéo để không lệ thuộc, cạnh tranh lành mạnh đúng
hướng để không bị phá sản.
4.2.3
Thành tựu, thách thức sau khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Sau khi hội nhập
Việt Nam có nhiều nỗ lực trong cải cách để tham gia vào thể chế toàn cầu. Thành
tực trong hội nhập kinh tế thể hiện qua một số tiêu chí bao gồm: Tăng trưởng
kinh tế trên 7,8% đến năm 2011 dưới ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm sút; ngoại thương tăng nhanh chóng; FDI tăng 7 lần so với thời kỳ 5 năm trước; độ
mở nề kinh tế lớn. Bên cạnh đó chúng ta cũng hình thành được thị trường lao
động, bất động sản, hàng hóa dịch vụ…
Cơ cấu hàng hóa và sản phẩm hàng hóa xuất khẩu còn đơn điệu, giá trị gia
tăng thấp chủ yếu hàng xuất khẩu là sản phẩm của công nghiệp khai thác hoặc
công nghiệp chế biến ở mức độ thấp, hàm lượng khoa học kỹ thuật không đang kể,
năng lực cạnh tranh thấp. Chính sách kinh tế không ổn định; văn bản luật và văn
bản dưới luật còn chậm trễ; tính cục bộ cao ngay trong đội ngũ quản lý vĩ mô.
Thực tế cho thấy nội lực còn yếu chưa bảo vệ được chính mình khi tham gia sân
chơi toàn cầu. Vấn đang vấp phải 3 thắt nút trong quá quá tình phát triển là:
kết cấu hạ tầng; chất lượng nguồn nhân lực; thể chế. Trong khi đó nhận thức về
hội nhập còn chưa đầy đủ nảy sinh kỳ vọng quá lớn hoặc tâm lý khó khăn là do
WTO. Vì vậy, cần phải nâng cao nội lực, coi WTO chỉ là phương tiện, Việt Nam cần
sử dụng hiệu quả phương tiện để hội nhập.
4.3 Hội nhập trên một số lĩnh vực khác
4.3.1
Về chính trị
Hội nhập chính chính trị xã hội được hiểu là các liên kết liên quan đến
vấn đề chính trị xã hội của các quốc gia thành viên theo những rằng buộc nhất
định với các thành viên trong khối và với nước thứ 3. Biểu hiện rõ nhất của nó
là những thay đổi trong thể chế, pháp luật ngày càng phù hợp với thị trường
chung.
Mỗi một hình thái nhà nước có
phương thức sản xuất phù hợp với nó, ứng vào đó là lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất tương ứng. Đương nhiên sự khác biệt về đường lối chính trị dẫn đến
đường lối chính sách trong quản lý và phát triển kinh tế xã hội cũng có những
nét đặc trưng riêng. Thay đổi tương quan lực lượng và bản đồ chính trị thế giới
đang có bước chuyển khôn lường. Thế giới nảy sinh nhiều vấn đề như đụng độ về
sắc tộc, tôn giáo; nội chiến liên miên ở một số quốc gia; vấn đề li khai; chủ
nghĩa khủng bố quốc tế. Đặt ra vấn đề hợp tác chung của tất cả các quốc gia bảo
vệ nền hòa bình thế giới. Hợp tác không chỉ dừng lại ở các quốc gia cùng thể
chế chính trị mà giữa các quốc gia khác nhau.
Hội nhập dẫn đến sự phụ thuộc qua
lại lẫn nhau giữa các nước trên thế giới. Bất ổn định chính trị ở quốc gia này
ắt hẳn sẽ gây nên nguy cơ bất ổn của các các nước láng giềng. Vấn đề li khai ở
một quốc gia nếu phát triển mạnh mẽ sẽ tạo nên làn sóng li khai của các tổ chức
khác. Vấn đề vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học cũng trở thành mối quan tâm
chung. Các nước bắt tay với nhau trong các vấn đề chung này thông qua các tổ
chức quốc tế để chung tay cùng bảo vệ thế giới. Ví dụ liên hợp quốc (UN), NATO
(khối quân sự bắc Đại Tây Dương). Vai trò của Liên Hợp Quốc trong tiếng nói
chung toàn cầu ngày càng tăng. Thể hiện thông qua vai trò gìn giữ hòa bình, ổn
định chính trị, ngăn chặn chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí giết người hàng
loạt, vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học; đấu tranh vì sự công bằng của tất cả
các quốc gia, vì sự phát triển của các dân tộc; có thể can thiệp vào các công
việc quốc tế quan trọng trong các lãnh thổ có tranh chấp và xung đột; kiềm chế
sự chi phối của các cường quốc đối với các quốc gia trên thế giới…
Hội nhập trong chính trị một mặt
mang lại nhiều lợi ích song cũng phát sinh một số vấn đề đối với các nhóm nước
khác nhau. Để đối phó với những hiểm hoạ an ninh từ chủ nghĩa khủng bố
quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, và nhiều lý do khác, một số quốc gia phải
tham gia cơ chế an ninh tập thể, nhưng chính việc này lại đặt các quốc gia vào
tình thế bị suy giảm chủ quyền. Cộng đồng quốc tế có thể thông qua các quyết định
tập thể, ít nhất là một sự thoả thuận chung do một nhóm nước có tiếng nói chi
phối, khởi xướng để gây sức ép hoặc trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ
của một nước theo kiểu lấy “mạnh chèn yếu”. Xâm phạm đến chủ quyền và tính độc lập
dân tộc.
4.3.2 Về văn hóa xã hội
Lịch sử văn hóa Việt nam trải
qua 4 thời kỳ: Xây dựng nền tảng văn hóa, Bắc thuộc cộng sinh với văn hóa Ấn Độ
- Trung Hoa, xây dựng văn hóa truyền thống, chuyển tiếp từ văn hóa truyền thống
sang văn hóa hiện đại. Quá trình phát triển cho thấy văn hóa Việt Nam giao lưu
hội nhập với văn hóa các nước khác trong khu vực tạo nên nền văn hóa đa dạng
nhưng cũng đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong hội nhập và sự phát triển mạnh mẽ của giao lưu văn hóa trên thế
giới giá trị tốt đẹp của văn hóa ngày càng được phổ biến rộng rãi. Nếu như
trước kia chủ yếu hội nhập với văn hóa phương Đông thì ngày nay xu hướng xâm
nhập và lan tỏa của văn hóa phương Tây như văn hóa trong lối sống như nhu cầu
về thể thao giải trí, thưởng thức nghệ thuật bao gồm âm nhạc, điện ảnh,…
Các quốc gia cũng chung tay góp sức trong việc cùng nhau bảo vệ giá trị
văn hóa trên mọi miền thế giới thông qua việc cùng tham gia các tổ chức, tự
nguyện tham gia công ước, kí kết các thỏa thuận liên quan đến bảo vệ, phát huy
giá trị văn hóa chung của các nước thành viên. Lớn mạnh nhất đó là tổ chức giáo
dục, khoa học, văn hóa UNESCO. Tổ chức đã có đóng góp lớn trong bảo vệ di sản
về văn hóa, thiên nhiên trên khắp thế giới.
Điều này một mặt tạo nên sự đa dạng về văn hóa khắp mọi nơi trên thế giới
mặt khác lại đặt ra vấn đề chống lại văn hóa “lai căng” và những “thói hư tật
xấu” không phù hợp xâm lăng. Trong hội nhập kinh tế thế giới, cần nhận thức rõ
trách nhiệm giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trách nhiệm phát
triển một nền văn hóa tiên tiến, nhưng vẫn mang đậm tính dân tộc; đó là nhân tố
quan trọng tạo nên động lực và phương pháp để phát triển kinh tế.
4.3.3 Hội nhập trong khoa học xã hội
Hiện tại Việt Nam có quan hệ mở rộng
với hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Quan hệ hợp tác trong nghiên cứu khoa học với
các quốc gia và các tổ chức quốc tế ngày càng phát triển. Nếu như trước đây,
trong quan hệ khoa học giữa Việt Nam và các nước trong khối xã hội chủ nghĩa
chỉ là mối quan hệ viện trợ, sau đổi mới trở thành mối quan hệ 2 chiều với
nhiều đối tác trên thế giới.
Thông qua nghiên cứu và trao đổi giáo
dục, gia tăng nhanh số lượng cán bộ đi học tại nước ngoài tạo điều kiện nâng
cao trình độ nguồn nhân lực, đội ngũ nghiên cứu. Tuy nhiên, hội nhập trong
nghiên cứu khoa học xã hội và giáo dục của Việt Nam còn nhiều thách thức. Đó là
nguy cơ tụt hậu trong nghiên cứu thể hiện ở chất lượng nhân lực và tính ứng
dụng của nghiên cứu. Xuất bản phẩm trong nước nhiều nhưng xuất bản phẩm quốc tế
rất thấp. Hoạt động nghiên cứu và đào tạo chưa gắn kết thực sự với nhau mà biểu
hiện rõ trong nhiều năm qua là tách rời các viện nghiên cứu và các trường đại
học. Nghiên cứu trong khoa học xã hội đang xa rời các chuẩn mực quốc tế, tính
ứng dụng chưa cao. Câu hỏi quan trọng nhất về mô hình phát triển, các lý luận
về kinh tế tri thức, thể chế, hội nhập giữ gìn bản sắc … vẫn chưa có câu trả
lời.
Như vậy, để có thể hội nhập với khoa
học xã hội, giáo dục thế giới Việt Nam cần phải thích ứng thay đổi. Trước hết
xác định đúng đối tác, lĩnh vực hợp tác trong nghiên cứu, gắn kết hoạt động
nghiên cứu và đào tạo, tuân theo chuẩn mực và ưu tiên đầu tư hợp tác với các
nhà khoa học danh tiếng trên thế giới. Hội nhập với các nhà nghiên cứu Việt Nam
học đưa Việt Nam ra với thế giới.
4.3.4 Hội nhập trong pháp luật
Trong quá trình hội nhập một vấn đề
được đặt ra đó là vai trò của thể chế trong sân chơi toàn cầu. Điều này, yêu
cầu các quốc gia tham gia phải có thay đổi trong pháp luật
phù hợp với pháp luật quốc tế. Các quốc gia ký kết pháp luật quốc tế ở
một số nước thì những điều ước quốc tế này mặc nhiên trở thành nội dung của
pháp luật quốc gia mà trong đó bao giờ luật quốc tế cũng được ưu tiên áp dụng,
ở một số quốc gia khác trong đó có Việt Nam điều ước quốc tế này sẽ được nội
luật hóa. Trong một số trường hợp quốc gia tham gia điều ước nhưng bảo lưu một
số điều thì đương nhiên nó không được áp dụng cho các nước thành viên mới.
Trong trường hợp Việt Nam cơ chế thực
hiện đảm bảo quyền con người là thách thức lớn. Quá trình hội nhập của Việt Nam
cho thấy, cường độ hội nhập về pháp luật là rất cao, tuy nhiên chất lượng chưa
cao. Nhiều chỗ còn có biểu hiện chắp vá trong khi tư tưởng bảo thủ tư duy cũ kỹ
về pháp luật nói chung và luật kinh tế nói riêng vẫn còn tồn tại.
5.Kết luận
Thứ nhất trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, việc tham gia
các tổ chức thế giới và khu vực là một yêu cầu tất yếu đối với mỗi quốc gia,
dân tộc trên con đường phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề mấu chốt,
bên cạnh hội nhập trong lĩnh vực cụ thể chính trị, văn hóa, pháp luật, thể chể,
ngôn ngữ, con người, giáo dục, khoa học công nghệ và khoa học xã hội. Hội nhập
chính trị đặt ra vấn đề bảo tồn chủ quyền, hội nhập văn hóa đặt ra vấn đề văn
hóa lai căng, hội nhập pháp luật cần thúc đấy nhanh chóng hơn nữa nhất là trong
giai đoạn nội luật hóa. Hội nhập ngôn ngữ đứng trước vấn đề làm trong sáng
tiếng việt cũng như nguy cơ biến mất của một số ngôn ngữ của các dân tộc ít
người. Hội nhập khoa học công nghệ và khoa học xã hội nhìn chung còn yếu kém
chưa theo chuẩn nào của thế giới, cần phải gắn kết giữa nghiên cứu và giảng
dạy.
Thứ hai trong lĩnh vực kinh tế hội nhập, thời điểm Việt Nam hội nhập ngay
trước các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù, có tận dụng được cơ hội và
đạt được một số thành tựu nhất định trong tăng trưởng kinh tế và ngoại thương
xong kinh tế Việt Nam sau hội nhập còn nhiều vấn đề về cơ cấu ngành kinh tế, cơ
cấu ngành công nghiệp, hàm lượng chất xám trong mặt hàng xuất khẩu nói riêng và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. Vấn đề đặt ra trước tiên là tái
cấu trúc nền kinh tế.
Thứ ba trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay khi mà bản đồ chính trị
và đối trọng thế giới đang có nhiều thay đổi với vai trò của một số quốc gia
Châu Á đang lên thì Việt Nam với vai trò là một nước nhỏ cần phải có bước đi
thận trọng hơn nữa trong bàn cờ chính trị thế giới.
Như vậy, hội nhập đặt ra cơ hội cũng như thách thức lớn cho các quốc gia.
Việc có phát triển kinh tế quốc gia được hay không phụ thuộc lớn vào bản thân
vấn đề quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc hoạch định chiến lược và sự năng động
của quốc gia đó ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh. Vừa hòa nhập vừa đấu tranh
để phát triển.
Tài liệu tham khảo
1.
Đỗ Đức Bình, 2007, Giáo
trình kinh tế quốc tế, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
2.
Nguyễn Văn Hiệu, 2011, Khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong thời hội nhập: Trường hợp
ngành văn hóa học, Khoa học xã hội thời kỳ hội nhập, NXB ĐHQG TP. HCM.
3.
Đặng Văn Phan, 2006, Địa lí kinh tế xã hội thời kì hội nhập, NXB giáo dục, Hà Nội.
4.
Nguyễn Xuân Thắng, 2007, Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình Công nghiệp
hóa Hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
5.
Võ Thị Thanh Thu, 2008, Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB thống kê, Hà Nội
6.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương CIEM, 2010, Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối
với nền kinh tế sau ba năm Việt Nam gia nhập WTO.
........................................................................................................................
*: Bài viết kết thúc lớp bồi dưỡng kiến thức hội nhập -Vass
*: Bài viết kết thúc lớp bồi dưỡng kiến thức hội nhập -Vass
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét