13 thg 7, 2019

Văn hóa, lối sống và Biến đổi khí hậu P3.6 Khung lý thuyết

Các nghiên cứu tìm hiểu về mối liên hệ giữa văn hóa, lối sống và biến đổi khí hậu không nhiều, chưa tìm thấy một nghiên cứu nào của Việt Nam đề cập đến mối liên hệ này. Các nghiên cứu khác trên thế giới có thể chia làm một số nhóm như sau: Các nghiên cứu về lý thuyết, các nghiên cứu về thực hành lối sống, nghiên cứu trong lĩnh vực kinh doanh, và nhóm các nghiên cứu khác.
Lý thuyết hành vi nghiên cứu về hành vi lý giải các cơ chế hình thành hành vi của con người và các yếu tố tác động để thay đổi về hành vi, chính vì thế lý thuyết hành vi ít nhiều liên quan mật thiết với các nhà tâm lý học và sinh vật học. Các đại diện tiêu biểu cho thuyết hành vi như: J. Watson (1878-1957); E.C. Tolman; giả thuyết hành vi diễn dịch của K. Hull; hành vi tạo tác của Skinner. Rất nhiều các nghiên cứu trong đó gắn hành vi con người với nền tảng sinh học đề cao vai trò của các kích thích bên ngoài mà coi nhẹ tính tích cực của chủ thể; coi hành vi giống như một bản năng phản ứng lại trước môi trường trong đó phần vô thức là chủ yếu.
Adler đưa ra khái niệm về “lối sống” coi đó là một mô hình thành công để đạt đến sự ưu việt của hành vi. Ông cũng quan tâm nhiều hơn việc hành vi cần giải quyết mối quan hệ giữa thỏa mãn nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội. Trong khi đó Horney chú ý đến yếu tố văn hóa trong nghiên cứu hành vi mà điểm nổi bật đó là đặt vấn đề “đặc trưng của nền văn hóa chuẩn mực”. Tuy nhiên, cho đến Skinner mới chú trọng đến việc kiểm soát hành vi thông quan việc phân tích chuỗi kích thích – phản ứng – củng cố ông cũng đưa ra “phần thưởng” và “trừng phạt” như những giải pháp cho vấn đề. Để thay đổi hành vi, trừng phạt không phải là giải pháp tối ưu. Nó chỉ là giải pháp tạm thời nhằm hạn chế hành vi. Giải pháp này chỉ đưa đến một nguy cơ cao hơn của việc bùng nổ hành vi bị kìm nén.
   Tác giả George Homans (1910-1989) tách tâm lý học ra khỏi xã hội học. Ông đưa ra lý thuyết hành vi xã hội (Social behavior: its Elementary forms, 1961) . Theo Homans hành vi xã hội có 3 đặc trưng cơ bản: i, hiện thực hóa hành vi thực hiện trên thực tế chứ không phải trong ý niệm; ii, hành vi đó được khen thưởng hay bị trừng phạt từ phía người khác; iii, người khác là nguồn củng cố trực tiếp đối với hành vi chứ không phải là nhân vật trung gian của một cấu trúc xã hội nào đấy (Lê Ngọc Hùng, 2009). Ông đưa ra định đề về giá trị và cho rằng kết quả của hành động càng có giá trị cao đối với chủ thể bao nhiêu thì chủ thể càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu (Lê Ngọc Hùng, 2009). Trong mối liên hệ giữa hành vi và văn hóa Skinner cho rằng hành vi do hoàn cảnh tạo ra, đó là tư tưởng của nền văn hóa, các củng cố xuất hiện trong đó chính là giá trị của văn hóa (Phạm Minh Hạc, 2005). Thuyết hành vi phải chú ý đặc biệt đến hệ thống giá trị (Endruweit và Trommsdorff, 2002).
Các nghiên cứu về lý thuyết lựa chọn hợp lý trong đó đại diện là Coleman, Hechter nhấn mạnh về cách họ đưa động cơ cá nhân trong quá trình biến đổi xã hội. Theo thuyết này hành vi cá nhân thực hiện trên cơ sở cân bằng chi phí và lợi ích để đi đến hành động cố gắng tối đa hóa lợi ích cá nhân (Milton, 1953 trong Wikipedia[1]) Nói cách khác, những người đưa ra quyết định thông qua so sánh lợi ích đạt được và chi phí bỏ ra. Lựa chọn hợp lý quan sát rõ trong các hành vi kinh tế. Trong hành vi xã hội học tính toán giữa cái “lợi ích” và “chi phí” bỏ ra không chỉ bao hàm ý nghĩa kinh tế mà còn tính đến những ý nghĩa khác về mặt xã hội.
Lý thuyết về hành vi kế hoạch là phần được mở rộng cho nguyên nhân của hành vi. Trong lý thuyết ban đầu của hành động hợp lý, một yếu tố trung tâm trong lý thuyết về hành vi của kế hoạch là ý định của cá nhân để thực hiện hành vi. Trong đó, ý định được giả định là để nắm bắt các yếu tố tác động ảnh hưởng đến hành vi. Theo nguyên tắc chung, ý định mạnh mẽ hơn sẽ tham gia vào 1 hành vi và sẽ có hiệu quả của nó.  Tuy nhiên, một ý định của hành vi có biểu hiện ra ngoài chỉ khi hành vi đã được kiểm soát bởi ý chí. Tức là người đó có thể quyết định theo ý muốn hoặc không thực hiện theo hành vi. Mặc dù trong thực tế, hành vi này có thể đáp ứng tốt, hầu hất hoạt động.  Ngoài ra, thái độ và đặc điểm tính cách có liên quan đến hành vi của con người những những ảnh hưởng hưởng đó có thể được phân biệt bằng cách nhìn bao quát. Trong những trường hợp cụ thể, suy giảm đáng kể bởi sự hiện diện của các vấn đề khác (Icek Ajzen, 1991).
Tóm lại, cơ chế xuất hiện hành vi do kích thích từ môi trường bên ngoài và xuất phát từ bản thân cá thể đó là: nhu cầu của cá thể, tính có khả năng thực hiện hành vi, và hành vi đó được xã hôi chấp nhận. Hay nói cách khác bản thân hành vi đó có giá trị nhất định đối với cá thể, có thể không phù hợp với chuẩn mực đạo đức nhưng chế tái kiểm soát xã hội và áp lực từ chuẩn mực đạo đức chưa đủ lớn khiến hành vi đó vẫn được thực hiện. Hành vi có thể được điều chính thông qua chế tài kiểm soát xã hội bằng việc thực  hiện các cơ chế “thưởng” và “phạt”. Tuy nhiên, các cơ chế này không phải là giải pháp cuối cùng, vì nó thường gia tăng hành vi bị kìm nén, theo quan điểm của tâm lý học nó sẽ gây những ức chế đối với cá thể dẫn đến nguy cơ bùng phát hành vi.
Để tìm mối quan hệ giữa vấn đề lối sống và môi trường, biến đổi khí hậu, bên cạnh những nghiên cứu lý thuyết thuần túy,  một số tác giả đã kiểm chứng các lý thuyết về hành vi cụ thể của lối sống với môi trường thông qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm.
Elizabeth tìm kiếm mối quan hệ giữa sự thay đổi xã hội trong môi trường chính sách hiện đại ở Anh và ở các nước khác.  Elizabeth xác định rõ hơn mô hình về mối quan hệ của thái độ (A-attitude), hành vi (B-behaviour), lựa chọn (C-choice), và sự thu hút của mô hình này. Thực chất mô hình ABC có nguồn gốc gần với và cũng như có sự liên kết với thuyết về hành vi hoạch định của Ajzen (1991). Để nghiên cứu mối quan hệ giữa hành vi tham gia giao thông với việc tiết kiệm năng lượng, Paul Stern[2] xem xét biến hành vi (B) như một sản phẩm của thái độ (A) và ngoại cảnh (C) và sử dụng bối cảnh như một biến nguyên nhân cùng với thói quen, khả năng cá nhân (Elizabeth, 2013).
Elizabeth cho rằng, yếu tố hoàn cảnh mang tính bao trùm và nó không tuân theo một thứ tự nào đó. Ví dụ về điều này bao gồm: mong đợi của cộng đồng; quảng cáo, quy định của chính phủ, yếu tố pháp lý và thể chế, ưu đãi tiền tệ và chi phí, khó khăn vật chất và hành động cụ thể; khả năng và hạn chế được cung cấp bởi công nghệ và môi trường xây dựng. Theo quan điểm ông cần phải sử dụng các công cụ chính sách để điều chỉnh hành vi. Tuy nhiên, yêu cầu tiếp cận xã hội mới bao gồm bối cảnh thể chế hóa và hành động người tiêu dùng. Kỳ vọng vào các can thiệp chính sách trên diện rộng có hiệu lực trong tương lai nhằm định hình lối sống cho dù bản thân người thực hiện có nhận ra điều đó hay không (Elizabeth, 2013).
Lorenzon and Langford  thực hiện nghiên cứu cố gắng tiếp cận phương pháp tiếp cận hỗn hợp chuyên sâu trước đây đã được áp dụng bởi Langford và cộng sự, (1999, 2000) để xác định mô hình cá nhân nhận thức được rủi ro trong môi trường; mối quan tâm và niềm tin của người trả lời; kiểm tra phản ứng của mọi người về vai trò, trách nhiệm của cá nhân, thị trường và các tổ chức trong việc định hình tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu cũng phân tích vấn đề đổ lỗi trách nhiệm giữa các bên liên quan. Hiện nay, mọi vấn đề đổ lỗi đến trách nhiệm của các nhà chính trị gia trong khi đó vấn đề BĐKH trong tương lai sẽ chuyển sang các nước đang phát triển. Nghiên cứu này phân tích về số liệu điều tra của bảng hỏi và kết quả thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu (Lorenzon and Langford, 2001).
Các nhà nghiên cứu hành vi ủng hộ môi trường cố gắng tiếp cận và đưa ra các mô hình cho việc thay đổi hành vi. Trong đó một số nhà nghiên cứu hành vi ủng hộ môi trường (ví dụ, Dahlstrand & Biel, 1997; De Vries, Mesters, Van der Steeg, và Honing, 2005; Martens & Rost, 1998) đã đề xuất để phân biệt 3 giai đoạn thay đổi hành vi. Giai đoạn 1: cá nhân nhận thức về tác hại về hành vi của họ; giai đoạn 2: hình thành ý định để thực hiện hành vi thay thế; giai đoạn 3: thực hiện ý định mới (thực hiện hành vi mới, hay nói cách khác là thay đổi hành vi cũ). Sebastian Bamberg – một nhà nghiên cứu người Đức – so sánh giữa các mô hình và cho rằng: mô hình giai đoạn hành động (MAP) của Heckhausen và Gollwitzer (1987) coi quá trình chuyển đổi hành vi thông qua một trình tự thời gian với 4 giai đoạn khác nhau: trước khi quyết định hành động (predecisional), trước hành động (preactional), hành động (actional), và sau hành động (postactional). Tuy nhiên, trong mô hình MAP không miêu tả chi tiết yếu tố tâm lý như một nhân tố góp phần vào các giai đoạn tiến triển. Xây dựng nên từ mô hình kích hoạt tiêu chuẩn của Schwartz & Howard (1981) và lý thuyết hành vi hoạch định của Ajzen (1991). Ở mô hình kích hoạt tiêu chuẩn (NAM) của Schwartz và Howard (1981) lại xem các hành vi xã hội được hướng dẫn bởi chuẩn mực đạo đức cá nhân. Trong lý thuyết hành vi hoạch định, hành vi ủng hộ môi trường là kết quả của một sự lựa chọn hợp lý nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân. Còn phân tích tổng hợp (Bamberg và Möser, 2007; Gardner, 2008) cho rằng cấu trúc của cả 2 mô hình nên được xem là những yếu tố dự báo quan trọng của hành vi ủng hộ môi trường. Prochaska và DiClemente (1984) đưa ra mô hình TTM phân tích quá trình thay đổi hành vi thông qua 5 giai đoạn: i, ở giai đoạn tiền dự định cá nhân không có ý định hành động trong tương lai gần; ii, giai đoạn nhận thức về sự thay đổi là cần thiết; iii, giai đoạn chuẩn bị là giai đoạn cá nhân hình thành ý định để có những hành động cụ thể trong tương lai; iv giai đoạn hành động là giai đoạn mà cá nhân thực sự thay đổi hành vi của họ; v, giai đoạn cá nhân ngăn ngừa sự tái phát (Sebastian Bamberg, 2013). Như vậy, các nhà nghiên cứu cố gắng phân đoạn các giai đoạn của việc lựa chọn hành động, hầu hết đều dựa vào sự thay đổi trong nhận thức của cá nhân trong quá trình đưa ra lựa chọn hành động.
Khác với các tác giả trên, nghiên cứu của Defra (2008) không phân chia các giai đoạn của tiến trình lựa chọn hành vi mà xác định 2 lĩnh vực có vai trò trong việc xây dựng hành vi của con người trong mối quan hệ với thay đổi môi trường bao gồm nhóm 13 yếu tố thuộc về cá nhân (kinh nghiệm, khả năng, thói quen, sự tự tin, giá trị, phần thường, ý thức, vị tha, quan điểm, lãnh đạo, kiến thức, đồng thuận, tin tưởng, chuẩn mực) đó và nhóm 8 yếu tố về hoàn cảnh (cơ sở hạ tầng, văn hóa, địa lý, tri thức xã hội, thông tin, tiếp cận vốn, khung thể chế, mạng xã hội). Tuy nhiên, khung này không phân cấp mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hành vi con người.



Nghiên cứu của Shove (2010) tìm kiếm mối quan hệ giữa lý thuyết xã hội và biến đổi khí hậu thì phê phán về sự đóng góp của các lý thuyết xã hội cho vấn đề chính sách đối với biến đổi khí hậu. Tác giả nghi ngờ và cho rằng chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những điểm yếu sau khi tham chiếu giữa báo cáo về thay đổi hành vi và các lý thuyết về văn hóa xã hội. Mặc dù, đã tăng chi phí cho việc nghiên cứu nhưng kết quả thu lại từ áp dụng chính sách cho BĐKH chưa thực sự hiệu quả. Shove cho rằng cần phải thu hẹp khoảng cách giữa khoa học xã hội và biến đổi khí hậu nhưng không nêu rõ cách thức để có thể giải quyết vấn đề ông đã đưa ra (Shove, 2010).
Các nghiên cứu về nhận thức của người dân đến vấn đề BĐKH một số nghiên cứu gắn với các lý thuyết như đã kể ra ở trên, một số lại liên quan trực tiếp đến hành vi cụ thể trong lối tiêu dùng và lối sản xuất kinh doanh.
DOENI nghiên cứu về nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu ở Iceland trong 2 năm 2009 và 2012, tìm hiểu về mức độ quan tâm đến BĐKH và nhận thức của người được hỏi về những ảnh hưởng của BĐKH đến cuộc sống của họ. Xác định những ảnh hưởng nào được cho là tiềm tàng có khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống của người được hỏi. Nghiên cứu thực nghiệm này cho thấy những mối quan hệ với lối sống và biến đổi khí hậu cụ thể là lối tiêu dùng sử dụng tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải thông qua hành vi tiêu dùng của cá nhân. Một nghiên cứu khác của Leiserowitz được tiến hành bởi dự án Yale của trung tâm truyền thông về BĐKH, đại học Yale được thực hiện vào năm 2008 và 2009. Khảo sát những vấn đề ưu tiên của họ đối với chính quyền mới liên quan đến vấn đề BĐKH và năng lượng. Nghiên cứu của Clare và Ulla tìm hiểu mối quan hệ giữa nghề nghiệp của người trong độ tuổi 18 – 35 ở New Zealand, Thụy Điển, Lebanon và Philipin thông qua điều tra về lối sống bền vững, tìm ra những mối quan tâm và sở thích của họ liên quan đến tính bền vững.
Echegaray và cộng sự có một nghiên cứu về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến kinh doanh. Nghiên cứu này tập trung vào phân tích sự thay đổi của lối sản xuất kinh doanh và lối sống đối với sự thay đổi khí hậu. Một số dẫn chứng thực nghiệm trong nghiên cứu ở 12 quốc gia [3] và ở cấp độ người dân. Nhóm tác giả cũng đưa ra vấn đề đạo đức trong tiêu dùng khi cá nhân đưa ra lựa chọn hành vi. Tuy nhiên, mối quan hệ này là rất tương đối và không phát hiện mối quan hệ tuyến tính giữa nhận thức và lựa chọn hành vi hướng đến BĐKH và đưa ra một số nguyên nhân về phía người tiêu dùng, mâu thuẫn lợi ích và việc coi nhẹ các giá trị về mặt môi trường. Đối với bên kinh doanh, thị trường vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng, là thách thức lớn đối với BĐKH. Nghiên cứu này cũng chỉ ra vấn đề đổ lỗi trách nhiệm giữa các bên, trong khi người dân trông chờ và chiến lược kinh doanh và công nghệ từ phía các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp mong đợi vào thay đổi hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng. Tất cả đều mong chờ vào thể chể từ chính phủ (Echegaray và cộng sự, 2008). Trong khi John Gowdy – một giáo sư về khoa học xã hội – nghiên cứu hành vi kinh doanh để đưa ra các chính sách về biến đổi khí hậu. Tác giả tập trung phân tích hành vi trong sản xuất kinh doanh thông qua với các lý thuyết hành vi và lý thuyết kinh tế truyền thống  (hành vi kinh tế và lý thuyết trò chơi) (John Gowdy, 2009). Trên cơ sở các phân tích lý thuyết hành vi trong kinh doanh, tác giả để xác lập nên cách chính sách cho biến đổi khí hậu từ góc độ phân tích hành vi trong kinh tế thì: khung phân tích đầy đủ là tối ưu hóa lợi ích dựa trên sự lựa chọn hợp lý; loại trừ ưu đãi về tiền tệ; hành vi tiêu dùng hiện tại không phải là hành vi tự nhiên; tính toán đến triết khấu cho tương lai; xác định điểm ngưỡng tới hạn để tạo nên đồng thuận chính trị. Gowdy đưa ra các chủ đề chính sách cho vấn đề nóng lên toàn cầu: tăng tiêu thụ không nhất thiết phải chuyển đổi sang tăng phúc lợi; khả năng hợp tác của con người với những người khác; hợp tác phụ thuộc vào sự trừng phạt; hợp tác toàn cầu về chính sách biến đổi khí hậu có thể tập trung vào khả năng hợp tác và khả năng cạnh tranh.
Các nghiên cứu về lối tiêu dùng gắn với việc nghiên cứu một số hành vi cụ thể trong đời sống hàng ngày bao gồm các nghiên cứu về lối sống bền vững (Defra, 2013; Clare và Ulla, 2013) hay các nghiên cứu cụ thể trong hành vi tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải (DOENI, 2012; Echegaray, 2008; ADBI, 2012; Matt Prescott, 2013); Sử dụng tiết kiệm năng lượng thông qua lựa chọn thiết bị tiêu thụ điện năng ở cấp hộ gia đình (DOENI, 2012; Joyshree Roy and Shamil Pal, 2009; ) thông qua việc lựa chọn phương tiện giao thông (Aini và cộng sự, 2013) hoặc cụ thể là ý định về hành vi sử dụng giao thông trong vấn đề du lịch trong tương lai (Tilly Line, Kiron Chatterjee và Glenn Lyons, 2011). Các báo cáo của IPCC (2007a, 2007b) đề cập đến việc lựa chọn lối sống và công nghệ có thể vừa giúp đỡ để cải thiện môi trường, nhưng nó không đi sâu vào nhiều chi tiết về cách thức cũ có thể đạt được điều này (Joyshree Roy and Shamil Pal, 2009,1). Ngoài ra, còn có nghiên cứu tác động ảnh hưởng của  các bộ phim về biến đổi khí hậu đến sự thay đổi hành vi người xem của Rachel cho thấy: ảnh hưởng này không kéo dài quá 10 – 14 tuần sau khi xem phim (Rachel , 2011).
Như vậy, có một số các nghiên cứu đi vào tiếp cận để lý giải lựa chọn hành vi có lợi đối với môi trường dựa theo các lý thuyết hành vi hoạch định như Elizabeth hay phân tích theo các giai đoạn hành động như Sebastian, Prochaska và DiClemente. Các mô hình lựa chọn hành vi được phân chia thành các giai đoạn hành động khác nhau. Nhìn chung các tác giả phân chia theo mô hình hành động chú ý đến sự thay đổi của bản thân cá nhân, trong khi đó Elizabeth nhấn mạnh đến ảnh hưởng từ môi trường và kỳ vọng vào các chế tài kiểm soát xã hội. Shove là tác giả duy nhất phê phán sự đóng góp của các lý thuyết xã hội cho việc thực hiện các chính sách về biến đổi khí hậu. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hầu hết người được hỏi có nhận thức và quan tâm đến biến đổi khí hậu, nhưng không có mối quan hệ tuyến tính nào giữa nhận thức và lối sống thân thiện với môi trường. Lựa chọn lối tiêu dùng và kinh doanh còn xem nhẹ giá trị về môi trường.




[1]http://en.wikipedia.org/wiki/Rational_choice_theory
[2] Một nhà tâm lý học xã hội người Anh
[3] Tuy nhiên, một số kết quả thống kê lại cho thấy kết quả của 18 quốc gia. Indonexia, Nga, Ấn Độ, Chile, Hàn Quốc, Đức, Nigeria, Anh, Brazil, Hoa Kỳ, Kenya, Trung Quốc, Philipin, Mexico, Ý, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha

Văn hóa, lối sống và Biến đổi khí hậu P2.6 Khung khái niệm

1.1.  Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm phức tạp, có nhiều cách hiểu và đã tạo ra tranh luận trong nhều thế kỉ. Khái niệm văn hóa xuất hiện lần đầu tiên từ thế kỷ XIII. Sau đó đã có nhiều quan niệm về văn hóa của các nhà khoa học Đức, Pháp, Mỹ hay các học thuyết và trường phái nghiên cứu khác nhau như: Tylor về thuyết phổ quát văn hóa, Boas về học thuyết đặc thù văn hóa, Durkhem về học thuyết thống thất các sự kiện văn hóa, Lesvy-Bruhl với học thuyết tiếp cận khác biệt, Kroeber với học thuyết truyền bá văn hóa, Malinowski với học thuyết phân tích chức năng văn hóa… Từ năm 1953 đã thống kê được 164 khái niệm về văn hóa (Krolber A và Kluckholn C, 1953). Khái niệm văn hóa phát triển cùng với quá trình thực tại, dưới các góc độ khác nhau các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều loại khái niệm, định nghĩa khác nhau về văn hóa. Nhìn chung có 2 loại định nghĩa về văn hóa là kiểu định nghĩa theo lối miêu tả và định nghĩa theo lối nêu lên đặc trưng. Định nghĩa miêu tả thường liệt kê các thành tố còn định nghĩa đặc trưng đi theo 3 trường phái: coi văn hóa là những kết quả, những quá trình hay là những quan hệ (Trần Ngọc Thêm, 2001). Theo một khái niệm về văn hóa được coi là chuẩn theo đánh giá của Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn (1952) thì văn hóa là “toàn bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật, những giá trị, những luật lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác mà con người với tư cách thành viên của xã hội nắm bắt được” do Edward B. Tylor đưa ra năm 1871. Ở định nghĩa này, tác giả cố gắng cụ thể hóa các thành phần cũng như là yếu tố của văn hóa theo kiểu liệt kê và diễn giải những gì mà con người nhận thức được.
Một khái niệm khác về văn hóa do nhà nhân học Charles Keyes (1995, tr. 9),  cho rằng: “Văn hóa vừa là biểu hiện của sự thích ứng của con người đối với bối cảnh sống của họ, vừa là một tập hợp những bối cảnh mà con người phải thích ứng”. Khái niệm đưa 2 vấn đề: Thứ nhất và biểu hiện về sự thích ứng của con người đối với hoàn cảnh sống và thứ 2 đó là những bối cảnh mà con người thích ứng. Gắn văn hóa đối với biến đổi khí hậu thì bối cảnh mà con người cần phải thích ứng chính là biến đổi khí hậu và biểu hiện của sự thích ứng của con người đối với bối cảnh biến đổi khí hậu đó chính là những thể hiện qua lối sống và phản ánh cụ thể qua hành vi của cá nhân cũng như của cộng đồng. Khác với khái niệm được đưa ra bởi Edward B. Tylor là cố gắng liệt kê, khái niệm của Charles mang tính tổng quát theo nhóm vấn đề. Khái niệm của Charles Keyes chỉ đề cập đến thích ứng tức phản ứng lại mang tính thụ động theo hoàn cảnh sống. Trong khi đó, hiện tại hoạt động của ứng phó với BĐKH còn mang tính chủ động bao gồm cả hoạt động giảm thiểu và thích ứng.
Trong nghiên cứu, tác giả tiếp cận văn hóa dưới góc độ xã hội học, coi văn hóa là những kết quả nhất định bao gồm giá trị, truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã hội, biểu trưng, ký hiện thông tin … mà một cộng đồng đã sáng tạo, kế thừa, tích lũy (Trần Ngọc Thêm, 2001). Tập trung vào nhận thức của con người về biến đổi khí hậu và mối quan hệ của lối sống và biến đổi khí hậu.
Khái niệm lối sống nhìn chung có nhiều cách sử dụng và cách hiểu khác nhau. Trong xã hội học Anh lối sống (lifestyle) thường được dùng trong những tranh luận về bản chất của cơ cấu giai cấp nước Anh. Hoặc trong một ngữ cảnh nào đó được sử dụng để nói về cách thức sống giữa thành thị và nông thôn. Đối với các nhà xã hội học lỗi lạc trong lịch sử như Max Werber. Ông tuy không đề cập trực tiếp tới khái niệm lối sống nhưng đề cập tới lối sống đặc thù của những nhóm xã hội mà ông gọi với thuật ngữ là phong cách sống của những giai cấp đặc thù (Mai Thị Kim Thanh, 2011).
Ở Việt Nam, luận giải khái niệm lối sống trên cơ sở lý luận của lối sống và cho rằng khái niệm lối sống ở Việt Nam bắt nguồn từ danh từ ghép gồm từ lối và từ sống. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật và xã hội của mỗi con người và xã hội loài người (Bùi Thế Cường và cộng sự 2010). Theo nghĩa thông thường và được sử dụng phổ biến nhất thuật ngữ lối sống nói đến cách sống khác nhau, thường đập ngay và mắt người ta thông qua những giá trị và những phương thức tiêu dùng, là những cái đi kèm theo sự khác biệt hóa ngày càng tăng của các xã hội tư bản chủ nghĩa tiên tiến (Bùi Thế Cường và cộng sự 2010). Lối sống theo nghĩa này được biểu hiện cụ thể qua các hành vi tiêu dùng của các nhóm dân cư, đây là cái để người ta phân biệt giữa nhóm này với nhóm khác theo cơ cấu giai cấp hay phân theo thành thị nông thôn.
Huỳnh Khái Vinh lại cho rằng lối sống là một khái niệm đa tầng và đa nghĩa. “Trong một chừng mực nhất định, lối sống là cách ứng xử của những người cụ thể trước những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư”. Do đó lối sống chịu sự quy định khách quan của môi trường sống nhưng văn hóa lối sống thì ngoài những cái khách quan của môi trường sống còn có thêm văn hóa để cải biến môi trường tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người (Huỳnh Khái Vinh, 2001). Tác giả cho rằng lối sống có bản chất văn hóa của nó cũng giống như sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung. Nếu quan niệm lối sống theo cách này thì lối sống là một biểu hiện, một khía cạnh của văn hóa theo cách định nghĩa như của Charles (1995).
Khi nhắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và lối sống có nhiều ý kiến khác nhau. Huỳnh Khái Vinh cho rằng bản chất văn hóa của lối sống thường có sự thống nhất giữa các riêng và cái chung. Cho rằng lối sống bao gồm một số vấn đề: i, lối sống là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của con người và được vận hành theo một bảng giá trị xã hội; ii, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và toàn bộ các điều kiện sống của con người; iii, lối sống có tính linh hoạt và có động cơ cao; iv, nghiên cứu nó cần coi trọng hình thức hoạt động lao động sản xuất, các giá trị vật chất và tinh thần; v, con đường để nắm bắt nội dung và phạm vi của khái niệm lối sống và tìm hiểu các hành động xã hội (hành vi ứng xử), cách thức hình thành và định hình các khuôn mẫu trong ứng xử; vi, lối sống xã hội nhìn chung mang tính chất văn hóa (Huỳnh Khái Vinh, 2001).
Huỳnh Khái Vinh phân tích và so sánh khác biệt giữa hai khái niệm lối sống , lối sống văn hóa và cho rằng “lối sống văn hóa là cách thức sinh tồn, tồn tại của con người trong những môi trường văn hóa nhất định”. Khái niệm lối sống văn hóa bao hàm sự kết hợp biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, giữa sáng tạo giá trị vật chất và giá trị văn hóa, gắn liền với hình thái kinh tế - xã hội, phản ánh trình độ phát triển của xã hội, cộng đồng và con người”. Theo cách hiểu này, khái niệm lối sống là một khái niệm độc lập với khái niệm văn hóa, bản thân lối sống chưa có yếu tố văn hóa. Chỉ có lối sống đặt trong một môi trường văn hóa nhất định mới là lối sống văn hóa. Huỳnh Khái Vinh đề cao khái niệm về lối sống văn hóa tuy nhiên lại khuôn khái niệm lối sống hẹp hơn rất nhiều, là một khái niệm tách ra khỏi khái niệm văn hóa và môi trường văn hóa.
Trịnh Thị Kim Ngọc phân tích khía cạnh văn hóa truyền thống của ý thức sinh thái cộng đồng ở Việt Nam và cho rằng: Người Việt Nam có một lối sống văn hóa hòa đồng với thiên nhiên với một quan điểm “Biết được việc trời, mười đời chẳng khổ” dựa vào thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình, cùng nhiều giá trị đạo đức và những tập tục truyền thống, thể hiện triết lý “thiên nhân hợp nhất, thiên nhân tương giao”(Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009). Tác giả cũng phân tích sinh thái cộng đồng và lối sống truyền thống và hiện đại với việc bảo vệ môi trường và cho rằng “Lối sống của cộng đồng đóng vai trò quyết định trọng lượng của cán cân quan hệ con người với môi trường tự nhiên và môi trường tái tạo. Cộng đồng có lối sống tốt sẽ xây dựng được một môi trường lành mạnh, ngược lại, đối với cộng đồng không hợp lý sẽ tàn phá môi trường sống ngày càng dữ dội và xung đột môi trường cũng ngày càng tăng (Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009).
Trong khi đó, Giang Thanh Huyền đồng nhất khái niệm văn hóa lối sống và lối sống có văn hóa. Tác giả này phân tích trên quan điểm maxit, tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng văn hóa lối sống có 5 đặc trưng cơ bản: i, tôn trọng lao động, giá trị lao động và người lao động; ii, sinh hoạt lành mạnh; iii, tôn trọng giá trị gia đình; iv, quan tâm tới hoạt động chính trị - xã hội; v, hướng tới sự phát triển toàn diện của nhân cách. Giống với Nguyễn Hồng Hà, Giang Thanh Huyền cũng phân tích văn hóa lối sống truyền thống, những thay đổi trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam từ phân tích thực trạng đến những biến  tích cực và tiêu cực của văn hóa lối sống. Sau đó đưa ra 4 giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa lối sống trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa cho Việt Nam (Giang Thanh Huyền, 2011).
 Dưới góc nhìn của nhà tâm lý học, lối sống được cho rằng đó “là sự biểu hiện tập trung của ảnh hưởng môi trường xã hội, cách quan niệm và tư duy của con người được thể hiện trong lối sống, đến lượt mình, lối sống ảnh hưởng đến tư duy, đến các quan niệm tình cảm, tâm tư” (Nxb TTLL, Hà Nội, 1982). Theo đó lối sống được biểu hiện ra ngoài bởi hành vi, tập hợp hành vi tương đối giống nhau theo nhóm phản ánh lối sống của từng nhóm. Ngược lại lối sống này ảnh hưởng đến tư duy và các chuẩn mực về tình cảm.
Dưới góc độ xã hội học, khái niệm lối sống được hiểu như là những khuôn mẫu hành vi, ứng xử tương đối ổn định trong tổ chức đời sống xã hội của mỗi cá nhân, nhóm xã hội tương ứng với vị trí, vai trò trong mỗi cấu trúc xã hội nhất định (Mai Thị Kim Thanh, 2011). “Lối sống được coi là biểu tượng văn hóa mà con người và xã hội đặt ra trong thế giới vật chất, phi vật thể trong quá trình cải biến thế giới tự nhiên sao cho thích hợp được với hệ thống các nhu cầu của xã hội con người.” (Mai Thị Kim Thanh, 2011). Tác giả cho rằng nghiên cứu lối sống dưới góc độ xã hội học là nghiên cứu: thái độ đối với lao động và học tập cũng như thái độ ứng xử trong quá trình lao động học tập; thái độ của con người, nhóm xã hội trong ứng xử hàng ngày, trong sử dụng thời gian rảnh rỗi; thái độ trong việc tham gia và các hoạt động chính trị xã hội (Mai Thị Kim Thanh, 2011). Hiểu khái niệm lối sống theo nghĩa này là nhấn mạnh đến thái độ trong các vấn đề xã hội nhưng không đề cập tới hành vi trong quá trình sống. Cũng như không rõ ràng khi nhắc đến các hoạt động chính trị xã hội. Một số tác giả khác phân tích khái niệm lối sống nhưng đặt trong bối cảnh của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa Việt Nam. Coi môi trường văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng lối sống và con người Việt Nam ví dụ Nguyễn Hồng Hà (2005).
Chu Khắc Thuật tổng kết 3 quan niệm về lối sống: Quan niệm 1: Nhìn lối sống theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các biểu hiện xã hội. Khái niệm lối sống được coi đồng nhất với khái niệm xã hội, gồm phương thức sản suất, quan hệ, chế độ và các điều kiện xã hội. Ngược lại, quan niệm thứ 2 nhìn nhận lối sống một cách phiến diện: coi lối sống như cách suy nghĩ, hành vi, nếp sống nội tâm của con người. Để thay đổi lối sống chỉ cần giáo dục, biến đổi nếp tư duy cũng như nhu cầu của con người. Quan niệm này mắc sai lầm trong việc phân tích để thay đổi hành vi. Hành vi có thể phán ánh những nhận thức của con người nhưng không phải có nhận thức là có hành vi mà còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường xung quanh. Quan niệm thứ ba: Nêu rõ “đặc trưng của lối sống gồm, những hình thức của hoạt động sống điển hình của con người, những điều kiện lao động và sinh hoạt, các mối quan hệ qua lại giữa họ với nhau. Lối sống là tổng hòa của những dạng hoạt động sống điển hình trong một xã hội nào đó được xem xét thống nhất với các điều kiện kinh tế - xã hội”(Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009).
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm lối sống và sự phân biệt các khái niệm về văn hóa lối sống, lối sống văn hóa và lối sống có văn hóa. Phân nhiều các tác giả nghiên cứu lối sống văn hóa đặt trong bối cảnh chính trị của Việt Nam để phân tích. Trong nghiên cứu, tác giả lựa chọn khái niệm lối sống sau đây của Giang Thanh Huyền để tiến hành phân tích trong mối quan hệ với Văn hóa và vấn đề Biến đổi khí hậu.
Lối sống là một phạm trù xã hội, khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người; trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” (Giang Thanh Huyền, 2011).
Biểu hiện của lối sống trên 3 khía cạnh: i, lối sống là một dạng hoạt động sống của con người; ii, hoạt động sống của con người phụ thuộc chặt chẽ và phương thức sản xuất và điều kiện sống của con người; iii, lối sống thể hiện đặc trưng riêng của từng cộng đồng người.
Với quan niệm lối sống như trên, đặt trong mối quan hệ với khái niệm văn hóa đã phân tích ở trên. Tác giả quan niệm lối sống gắn với hành vi cụ thể trong đời sống và trong hoạt động sản xuất bao gồm lối tiêu thụ và lối sản xuất kinh doanh, phân tích khái niệm văn hóa dưới góc độ nhận thức về giá trị của vấn đề biến đổi khí hậu trong các bậc thang giá trị.


Theo UNFCCC (Công ước khung liên hợp quốc về BĐKH) cho rằng: “BĐKH là một sự thay đổi của khí hậu do hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người tác động làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu, loại trừ việc thay đổi khí hậu do tự nhiên được quan sát trong khoảng thời gian tương đương”. Theo quan niệm về BĐKH này của UNFPCCC đã loại bỏ toàn bộ ảnh hưởng của quy luật tự nhiên của lớp vỏ địa lý đặc biệt là quy luật nhịp điệu để giải nghĩa hiện tượng BĐKH.
Ngược lại với định nghĩa của UNFPCCC ở trên, IPCC (Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu) đưa ra khái niệm về BĐKH trong đó có tính đến cả hoạt động của quá trình tự nhiên. IPCC coi “BĐKH là một sự thay đổi trong trạng thái của khí hậu có thể được xác định bởi những thay đổi trong giá trị trung bình hoặc sự thay đổi về thuộc tính của nó trong thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc lâu hơn. Khí hậu thay đổi có thể là do quy trình nội bộ tự nhiên hoặc do quá trình bên ngoài, hoặc do con người thay đổi các thành phần trong khí quyển và trong sử dụng đất” [1].
Như vậy, nguyên nhân của quá trình tự nhiên của hiện tượng BĐKH là sự khác nhau cơ bản trong 2 định nghĩa trên và đây cũng là 2 trường phái chính về quan điểm về biến đổi khí hậu. Trong những thập kỷ trước từ các nhà khoa học trên thế giới còn bàn cãi về việc BĐKH có phải là do con người hay không và con người đóng góp như thế nào vào hiện tượng này. Tuy nhiên, từ năm 2008 thông qua báo cáo của IPCC đã thể hiện sự đồng thuận trong giới khoa học rằng biến đổi khí hậu là có thật và con người là tác nhân của hiện tượng này.
Trong hai khái niệm trên, khái niệm của IPCC nói rõ hơn về biểu hiện của BĐKH, đó chính là việc thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu. Chủ yếu do sự gia tăng các khí thải gây hiệu ứng nhà kính được quy đổi về hàm lượng CO2 trong không khí. Theo quy luật thống nhất và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lý, sự thay đổi của khí quyển sẽ dẫn đến việc thay đổi 2 vòng tuần hoàn cơ bản của trái đất là vòng tuần hoàn nhiệt và vòng tuần hoàn ẩm. Sự thay đổi các vòng tuần hoàn này dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ khí quyển trung bình và thay đổi lượng mưa theo không gian và thời gian. Đây chính là 2 biểu hiện cụ thể nhất của biến đổi khí hậu. Đi kèm với hiện tượng của biến đổi khí hậu là việc gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan và tăng mực nước biển.

Lối sống và BĐKH có mối liên hệ với nhau nhưng đó không phải là mối liên hệ trực tiếp mà là một liên hệ gián tiếp khá phức tạp, mất nhiều thời gian để giới khoa học xác nhận mối liên hệ giữa 2 vấn đề này.
Trước hết, lối sống thể hiện rõ nhất trong lối sản xuất, lối kinh doanh, lối tiêu dùng với các hành vi cụ thể trong đời sống hàng ngày và trong sản xuất đó chính là hành vi khai thác tài nguyên (khai tác khoáng sản, khai thác tài nguyên động thực vật, khai thác thủy năng …), sử dụng tài nguyên (sử dụng nước, sử dụng khoáng sản trong ngày công nghiệp…) và phát thải rác thải ra môi trường. Tất cả các hành vi khai thác thác tài nguyên và phát thải rác thải này có ảnh hưởng môi trường địa lí xung quanh và vượt quá khả năng chịu tải của môi trường tự nhiên. Theo các nghiên cứu thì để môi trường tiêu thụ hết rác thải mà con người xả ra trong 1 năm (tính toàn cho năm 2002) cần phải mất 1 năm 2 tháng (Boersema Jan. J., và Reijnders Lucas, 2008). Như vậy, hoạt động sống của con người trên trái đất đang vượt quá xa khả năng chịu tải của môi trường tự nhiên, trong khi khả năng chịu tải của môi trường có hạn, lượng phát thải ngày một tăng dẫn đến gia tăng một cách đột ngột lượng khí trơ như CO2 và một số khí oxit ni tơ khác dẫn đến hiện tượng hiệu ứng nhà kính, tăng quá trình giữ nhiệt trong khí quyển trái đất, đây là nguyên nhân chính của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Mặt khác việc thay đổi cấu trúc thành phần khí quyển dẫn đến thay đổi vòng tuần hoàn nhiệt và vòng tuần hoàn ẩm là 2 vòng tuần hoàn cơ bản và quan trọng trên trái đất dẫn đến các hiện tượng của BĐKH.
Như vậy, việc gia tăng thành phần các khí trơ mà chủ yếu là CO2 được coi là nguyên nhân dẫn đến BĐKH trên toàn cầu. Mối quan hệ giữa lối sống và BĐKH được thể hiện thông qua việc tăng phát thải CO2 nói chung[2] trong khí quyển. Lối sống có mối quan hệ tác động gián tiếp đến BĐKH hai chiều thông qua hành vi phát thải rác thải. Trước hết là các hành vi gia tăng phát thải và khai thác tài nguyên quá mức dẫn đến sự gia tăng nhanh thành phần các khí gây hiệu ứng nhà kính. Tiếp theo là nhóm hành vi tích cực giúp giảm phát thải, giảm lượng khí CO2 trong khí quyển.
Ngược lại BĐKH cũng có tác dụng lại đối với lối sống tiêu dùng, sản suất và kinh doanh thông qua ảnh hưởng lây truyền trong toàn bộ môi trường địa lý bao xung quanh con người, tác động đến các quá trình tự nhiên trên trái đất. Những biểu hiện cụ thể của biến đổi khí hậu đó là sự gia tăng nhiệt độ, mực nước biển và thay đổi về tần suất cũng như cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như: Bão, lũ lụt, sương muối, mưa đá …
Báo cáo hàng năm của IPCC về BĐKH đã tóm gọn những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động của con người. Các phương án mực nước biển tăng và các giả định khác về sự thay đổi nhiệt độ đưa ra những dự báo về ảnh hưởng của BĐKH trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù không đưa ra được ngưỡng rõ ràng để xác định đâu là mức “nguy hiểm” hay “an toàn” nhưng BĐKH và những ảnh hưởng của nó là vô cùng to lớn. Trước hết sẽ ảnh hưởng đến một loạt các quá trình nối tiếp nhau bao gồm các vấn đề trọng yếu là: sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực; khủng hoảng nước và tình trạng bất an ninh về nước; nước biển dâng và nguy cơ thiên tai; Các hệ sinh thái và đa dạng sinh học; Sức khỏe con người. Thông qua 5 cơ chế này mà BĐKH có thể đẩy lùi cả quá trình phát triển của con người nếu nhiệt độ độ dự báo tăng 20C (UNDP, 2008). Các kịch bản BĐKH nếu nhiệt độ tăng lên 3 đến 4 độ C thì 330 triệu người phải di dời tạm thời hay vĩnh viễn do lũ lụt. Hơn 70 triệu người Băng-la-đét, 6 triệu người ở vùng đồng bằng thấp của Ai-cập và 22 triệu người ở Việt Nam có thể bị ảnh hưởng (UNDP, 2008, 10). Rõ ràng BĐKH “là thách thức lâu dài lớn nhất mà con người phải đối mặt” (Tony Blair, 2006) bởi khẳ năng gây thiệt hại: đến con người, đến tự nhiên, vật chất, tài chính và xã hội của con người.
Dưới những tác động trực tiếp từ các hiện tượng của BĐKH con người buộc phải thay đổi lối sống cho phù hợp với hoàn cảnh khác. Mặc khác, khi con người nhận thức được vấn đề của BĐKH và nguyên nhân của nó, con người xây dựng các trường trình hành động nhằm ứng phó với BĐKH về thực chất là các hoạt động nhằm thích ứng với điều kiện của BĐKH và các hoạt động giảm thiểu phát thải. Các hoạt động thích ứng hay giảm thiểu thể hiện rõ sự thay đổi của lối sống do BĐKH đặc biệt là trong lối tiêu dùng của cá nhân và cộng đồng.




[2] Bao gồm là lượng khí nhà kính khác quy đổi sang CO2

LV2. Gia tăng dân số tự nhiên - tỷ suất sinh


Gia tăng tự nhiên là động lực của quá trình gia tăng dân số, nó được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa mức sinh và mức chết của dân số.
a.     Các tỷ suất sinh
-         Tỷ suất sinh thô
Tỷ suất sinh thô phản ánh tương quan giữa số trẻ sinh ra trong năm còn sống so với dân số trung bình tại cùng thời điểm, được tính theo đơn vị phần nghìn (‰).



Tỷ suất sinh thô phản ánh gần đúng tình hình sinh của toàn bộ dân số vì trên thực tế trong thời gian 1 năm không phải toàn bộ dân cư tham gia vào quá trình sinh sản mà chỉ có một bộ phận dân cư thuộc độ tuổi sinh đẻ. Cụ thể là số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được xác định là có độ tuổi từ 15 đến 49 tuổi.
-         Tỷ suất sinh chung
Để phản ánh chính xác hơn tình hình sinh đẻ người ta dùng tỷ suất sinh chung hoặc tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi. Tỷ suất sinh chung là tương quan giữa số trẻ em sinh ra trong năm còn sống so với số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở cùng thời điểm, đơn vị tính phần nghìn (‰)




-         Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi
Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi phản ánh rõ nhất tình hình sinh thực tế. Nó cho biết số trẻ em sinh ra còn sống của phụ nữ thuộc nhóm tuổi x so với số phụ nữ trong độ tuổi x. Theo nghiên cứu thì tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi cao nhất ở nhóm 20-24, 25-29 và giảm nhanh ở các nhóm tuổi lớn hơn. ASFR cao nhất ở nhóm 20-24 gọi là mô hình sinh sớm. ASFR cao nhất ở nhóm 25-29 gọi là mô hình sinh muộn.


-         Tổng tỷ suất sinh
Tổng tỷ suất sinh là số con trung bình mà một phụ nữ có thể sinh ra trong suốt cuộc đời nếu như trải qua tất cả các tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của năm đó.
TFR 2,1 đạt [S1] mức sinh thay thế là mức sinh mà một đoàn hệ phụ nữ trung bình có vừa đủ số con gái để thay thế mình trong dân số[S2] , đảm bảo cho sự ổn định quy mô dân số. TFR phụ thuộc chủ yếu vào tâm lý sinh đẻ và chính sách dân số. Chính sách dân số có thể hướng vào việc tăng TFR ở các quốc gia phát triển và giảm TFR ở các quốc gia đang phát triển để đạt mức sinh thay thế cần thiết. TFR tỷ lệ thuận với tỷ suất sinh thô, khi số tử vong nhất là tử vong trẻ em cao lại tạo ra tâm lý sinh bù, sinh thay thế đẩy TFR lên cao. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là do kinh tế - xã hội kém phát triển, điều điện chăm sóc sức khoẻ nhất là đối với phụ nữ và trẻ em không được đảm bảo.







 [S1]mức sinh thay thế xảy ra khi tỷ suất tái sinh tinh = 1, lúc này TFR = 2,1


 [S2]trang 101- dân số học-NXB y học

LV.1. Khái niệm dân số và quy mô dân số


Dân số học là khoa học về dân số nghiên cứu quy luật tái sản xuất dân cư trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trên một lãnh thổ nhất định. Khoa học dân số nghiên cứu tính quy luật và những điều kiện xã hội liên quan tới việc sinh, tử, hôn nhân, cơ cấu dân số, tái sản xuất dân cư và sự phân bố của chúng theo thời gian và không gian.
Dân số là khái niệm rất hay thường được dùng. Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam “dân số với nghĩa rộng là tập hợp những người cư trú thường xuyên và sống trên một lãnh thổ nhất định (một nước, một vùng kinh tế, một đơn vị hành chính…)”. Như vậy, theo quan điểm này khái niệm dân số và quy mô dân số là đồng nhất với nhau.
Trong dân số học lại xem xét dân số trong một phạm vi hẹp hơn, lúc này dân số được xem là một tập hợp người hạn định trong phạm vi nào đó (về cấu trúc, về lãnh thổ) và có một số tính chất gắn liền với tái sản xuất liên tục [N1] của nó. Ở đây chính là số dân cư trú. Số dân này tham gia thường xuyên vào đời sống kinh tế - xã hội khu vực nơi cư trú. Khác với quan niệm dân số theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả những người có mặt, họ không nhất thiết phải là người tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên trên địa bàn. Trong khái niệm số dân chỉ xác định về mặt số lượng của dân số, tức số người gắn với không gian và thời gian đang được nói đến. Vậy về phạm vi khái niệm số dân hẹp hơn rất nhiều so với khái niệm về dân số.
Dân cư là một tập hợp những con người cư trú trên một lãnh thổ nhất định gắn liền với khái niệm lãnh thổ. Khái niệm dân cư không chỉ bao gồm cả khía cạnh về quy mô, cơ cấu mà bao hàm cả các vấn đề kinh tế, văn hoá, sức khoẻ, ngôn ngữ và tập quán. Như vậy, “dân số là dân cư được xem xét và nghiên cứu ở góc độ quy mô và cơ cấu.” [5][S2] . Về mặt khái niệm, dân số rộng hơn số dân và hẹp hơn về dân cư.
Theo tác giả Nguyễn Đình Cử quy mô dân số của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) tại một thời điểm là tổng số người hay tổng số dân của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) ấy tại thời điểm đó[5][S3] . Khái niệm về quy mô dân số có tính xác định rõ hơn về thời điểm.
Quy mô dân số là đại lượng đầu tiên khi nghiên cứu về dân số, nó không thể thiếu được trong việc xác định mức sinh, tử, di dân và là cơ sở để hoạch định chính sách DSKHHGD.