Văn hóa là một khái niệm
phức tạp, có nhiều cách hiểu và đã tạo ra tranh luận trong nhều thế kỉ. Khái niệm
văn hóa xuất hiện lần đầu tiên từ thế kỷ XIII. Sau đó đã có nhiều quan niệm về
văn hóa của các nhà khoa học Đức, Pháp, Mỹ hay các học thuyết và trường phái
nghiên cứu khác nhau như: Tylor về thuyết phổ quát văn hóa, Boas về học thuyết
đặc thù văn hóa, Durkhem về học thuyết thống thất các sự kiện văn hóa,
Lesvy-Bruhl với học thuyết tiếp cận khác biệt, Kroeber với học thuyết truyền bá
văn hóa, Malinowski với học thuyết phân tích chức năng văn hóa… Từ năm 1953 đã
thống kê được 164 khái niệm về văn hóa (Krolber A và Kluckholn C, 1953). Khái
niệm văn hóa phát triển cùng với quá trình thực tại, dưới các góc độ khác nhau
các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều loại khái niệm, định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Nhìn chung có 2 loại định nghĩa về văn hóa là kiểu định nghĩa theo lối
miêu tả và định nghĩa theo lối nêu lên đặc trưng. Định nghĩa miêu tả thường liệt
kê các thành tố còn định nghĩa đặc trưng đi theo 3 trường phái: coi văn hóa là
những kết quả, những quá trình hay là những quan hệ (Trần Ngọc Thêm, 2001). Theo
một khái niệm về văn hóa được coi là chuẩn theo đánh giá của Alfred Kroeber và
Clyde Kluckhohn (1952) thì văn hóa là “toàn
bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật, những giá trị, những luật
lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác mà con người với tư
cách thành viên của xã hội nắm bắt được” do Edward B. Tylor đưa ra năm
1871. Ở định nghĩa này, tác giả cố gắng cụ thể hóa các thành phần cũng như là yếu
tố của văn hóa theo kiểu liệt kê và diễn giải những gì mà con người nhận thức
được.
Một khái niệm khác về
văn hóa do nhà nhân học Charles Keyes (1995, tr. 9), cho rằng: “Văn hóa vừa là biểu hiện của sự thích ứng của
con người đối với bối cảnh sống của họ, vừa là một tập hợp những bối cảnh mà
con người phải thích ứng”. Khái niệm đưa 2 vấn đề: Thứ nhất và biểu
hiện về sự thích ứng của con người đối với hoàn cảnh sống và thứ 2 đó là những
bối cảnh mà con người thích ứng. Gắn văn hóa đối với biến đổi khí hậu thì bối cảnh
mà con người cần phải thích ứng chính là biến đổi khí hậu và biểu hiện của sự
thích ứng của con người đối với bối cảnh biến đổi khí hậu đó chính là những thể
hiện qua lối sống và phản ánh cụ thể qua hành vi của cá nhân cũng như của cộng
đồng. Khác với khái niệm được đưa ra bởi Edward B. Tylor là cố gắng liệt kê,
khái niệm của Charles mang tính tổng quát theo nhóm vấn đề. Khái niệm của
Charles Keyes chỉ đề cập đến thích ứng tức phản ứng lại mang tính thụ động theo
hoàn cảnh sống. Trong khi đó, hiện tại hoạt động của ứng phó với BĐKH còn mang
tính chủ động bao gồm cả hoạt động giảm thiểu và thích ứng.
Trong nghiên cứu, tác giả tiếp cận văn hóa dưới góc độ xã hội
học, coi văn hóa là những kết quả nhất định bao gồm giá trị, truyền thống, nếp
sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã hội, biểu trưng, ký hiện thông tin … mà
một cộng đồng đã sáng tạo, kế thừa, tích lũy (Trần Ngọc Thêm, 2001). Tập trung
vào nhận thức của con người về biến đổi khí hậu và mối quan hệ của lối sống và
biến đổi khí hậu.
Khái niệm lối sống
nhìn chung có nhiều cách sử dụng và cách hiểu khác nhau. Trong xã hội học Anh lối
sống (lifestyle) thường được dùng trong những tranh luận về bản chất của cơ cấu
giai cấp nước Anh. Hoặc trong một ngữ cảnh nào đó được sử dụng để nói về cách
thức sống giữa thành thị và nông thôn. Đối với các nhà xã hội học lỗi lạc trong
lịch sử như Max Werber. Ông tuy không đề cập trực tiếp tới khái niệm lối sống
nhưng đề cập tới lối sống đặc thù của những nhóm xã hội mà ông gọi với thuật ngữ
là phong cách sống của những giai cấp đặc thù (Mai Thị Kim Thanh,
2011).
Ở Việt Nam, luận giải
khái niệm lối sống trên cơ sở lý luận của lối sống và cho rằng khái niệm lối sống
ở Việt Nam bắt nguồn từ danh từ ghép gồm từ lối và từ sống. Lối là lề lối, thể
thức, kiểu cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật
và xã hội của mỗi con người và xã hội loài người (Bùi Thế Cường và cộng sự
2010). Theo nghĩa thông thường và được sử dụng phổ biến nhất thuật ngữ lối sống
nói đến cách sống khác nhau, thường đập ngay và mắt người ta thông qua những
giá trị và những phương thức tiêu dùng, là những cái đi kèm theo sự khác biệt
hóa ngày càng tăng của các xã hội tư bản chủ nghĩa tiên tiến (Bùi Thế Cường và
cộng sự 2010). Lối sống theo nghĩa này được biểu hiện cụ thể qua các hành vi
tiêu dùng của các nhóm dân cư, đây là cái để người ta phân biệt giữa nhóm này với
nhóm khác theo cơ cấu giai cấp hay phân theo thành thị nông thôn.
Huỳnh Khái Vinh lại
cho rằng lối sống là một khái niệm đa tầng và đa nghĩa. “Trong một chừng mực nhất định, lối sống là cách ứng xử của những người
cụ thể trước những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường
là cái khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người của
các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư”. Do đó lối sống chịu sự quy định khách
quan của môi trường sống nhưng văn hóa lối sống thì ngoài những cái khách quan
của môi trường sống còn có thêm văn hóa để cải biến môi trường tự nhiên cho phù
hợp với nhu cầu của con người (Huỳnh Khái Vinh, 2001). Tác giả cho rằng lối sống
có bản chất văn hóa của nó cũng giống như sự thống nhất giữa cái riêng và cái
chung. Nếu quan niệm lối sống theo cách này thì lối sống là một biểu hiện, một
khía cạnh của văn hóa theo cách định nghĩa như của Charles (1995).
Khi nhắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và lối sống có nhiều ý
kiến khác nhau. Huỳnh Khái Vinh cho rằng bản chất văn hóa của lối sống thường
có sự thống nhất giữa các riêng và cái chung. Cho rằng lối sống bao gồm một số
vấn đề: i, lối sống là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của con người
và được vận hành theo một bảng giá trị xã hội; ii, lối sống chịu sự quy định của
phương thức sản xuất và toàn bộ các điều kiện sống của con người; iii, lối sống
có tính linh hoạt và có động cơ cao; iv, nghiên cứu nó cần coi trọng hình thức
hoạt động lao động sản xuất, các giá trị vật chất và tinh thần; v, con đường để
nắm bắt nội dung và phạm vi của khái niệm lối sống và tìm hiểu các hành động xã
hội (hành vi ứng xử), cách thức hình thành và định hình các khuôn mẫu trong ứng
xử; vi, lối sống xã hội nhìn chung mang tính chất văn hóa (Huỳnh Khái Vinh, 2001).
Huỳnh Khái Vinh phân
tích và so sánh khác biệt giữa hai khái niệm lối sống , lối sống văn hóa và cho
rằng “lối sống văn hóa là cách thức sinh
tồn, tồn tại của con người trong những môi trường văn hóa nhất định”. Khái
niệm lối sống văn hóa bao hàm sự kết hợp biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu
tố tinh thần, giữa sáng tạo giá trị vật chất và giá trị văn hóa, gắn liền với
hình thái kinh tế - xã hội, phản ánh trình độ phát triển của xã hội, cộng đồng
và con người”. Theo cách hiểu này, khái niệm lối sống là một khái niệm độc lập
với khái niệm văn hóa, bản thân lối sống chưa có yếu tố văn hóa. Chỉ có lối sống
đặt trong một môi trường văn hóa nhất định mới là lối sống văn hóa. Huỳnh Khái
Vinh đề cao khái niệm về lối sống văn hóa tuy nhiên lại khuôn khái niệm lối sống
hẹp hơn rất nhiều, là một khái niệm tách ra khỏi khái niệm văn hóa và môi trường
văn hóa.
Trịnh Thị Kim Ngọc
phân tích khía cạnh văn hóa truyền thống của ý thức sinh thái cộng đồng ở Việt
Nam và cho rằng: Người Việt Nam có một lối sống văn hóa hòa đồng với thiên
nhiên với một quan điểm “Biết được việc
trời, mười đời chẳng khổ” dựa vào thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của
chính mình, cùng nhiều giá trị đạo đức và những tập tục truyền thống, thể hiện
triết lý “thiên nhân hợp nhất, thiên nhân
tương giao”(Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009). Tác giả cũng phân tích sinh thái cộng
đồng và lối sống truyền thống và hiện đại với việc bảo vệ môi trường và cho rằng
“Lối sống của cộng đồng đóng vai trò quyết
định trọng lượng của cán cân quan hệ con người với môi trường tự nhiên và môi
trường tái tạo. Cộng đồng có lối sống tốt sẽ xây dựng được một môi trường lành
mạnh, ngược lại, đối với cộng đồng không hợp lý sẽ tàn phá môi trường sống ngày
càng dữ dội và xung đột môi trường cũng ngày càng tăng (Trịnh Thị Kim Ngọc,
2009).
Trong khi đó, Giang
Thanh Huyền đồng nhất khái niệm văn hóa lối sống và lối sống có văn hóa. Tác giả
này phân tích trên quan điểm maxit, tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng văn hóa lối
sống có 5 đặc trưng cơ bản: i, tôn trọng lao động, giá trị lao động và người
lao động; ii, sinh hoạt lành mạnh; iii, tôn trọng giá trị gia đình; iv, quan
tâm tới hoạt động chính trị - xã hội; v, hướng tới sự phát triển toàn diện của
nhân cách. Giống với Nguyễn Hồng Hà, Giang Thanh Huyền cũng phân tích văn hóa lối
sống truyền thống, những thay đổi trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa
ở Việt Nam từ phân tích thực trạng đến những biến tích cực và tiêu cực của văn hóa lối sống.
Sau đó đưa ra 4 giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa lối sống trong thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa cho Việt Nam (Giang Thanh Huyền, 2011).
Dưới góc nhìn của nhà tâm lý học, lối sống được
cho rằng đó “là sự biểu hiện tập trung của
ảnh hưởng môi trường xã hội, cách quan niệm và tư duy của con người được thể hiện
trong lối sống, đến lượt mình, lối sống ảnh hưởng đến tư duy, đến các quan niệm
tình cảm, tâm tư” (Nxb TTLL, Hà Nội, 1982). Theo đó lối sống được biểu hiện
ra ngoài bởi hành vi, tập hợp hành vi tương đối giống nhau theo nhóm phản ánh lối
sống của từng nhóm. Ngược lại lối sống này ảnh hưởng đến tư duy và các chuẩn mực
về tình cảm.
Dưới góc độ xã hội học,
khái niệm lối sống được hiểu như là những khuôn mẫu hành vi, ứng xử tương đối ổn
định trong tổ chức đời sống xã hội của mỗi cá nhân, nhóm xã hội tương ứng với vị
trí, vai trò trong mỗi cấu trúc xã hội nhất định (Mai
Thị Kim Thanh, 2011). “Lối
sống được coi là biểu tượng văn hóa mà con người và xã hội đặt ra trong thế giới
vật chất, phi vật thể trong quá trình cải biến thế giới tự nhiên sao cho thích
hợp được với hệ thống các nhu cầu của xã hội con người.” (Mai Thị Kim Thanh, 2011).
Tác giả cho rằng nghiên cứu lối sống dưới góc độ xã hội học
là nghiên cứu: thái độ đối với lao động và học tập cũng như thái độ ứng xử
trong quá trình lao động học tập; thái độ của con người, nhóm xã hội trong ứng
xử hàng ngày, trong sử dụng thời gian rảnh rỗi; thái độ trong việc tham gia và
các hoạt động chính trị xã hội (Mai
Thị Kim Thanh, 2011). Hiểu khái niệm lối sống theo nghĩa
này là nhấn mạnh đến thái độ trong các vấn đề xã hội nhưng không đề cập tới
hành vi trong quá trình sống. Cũng như không rõ ràng khi nhắc đến các hoạt động
chính trị xã hội. Một số tác giả khác phân tích khái niệm lối sống nhưng đặt
trong bối cảnh của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa Việt Nam. Coi môi
trường văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng lối sống và
con người Việt Nam ví dụ Nguyễn Hồng Hà (2005).
Chu Khắc Thuật tổng kết
3 quan niệm về lối sống: Quan niệm 1: Nhìn lối sống theo nghĩa rộng, bao gồm tất
cả các biểu hiện xã hội. Khái niệm lối sống được coi đồng nhất với khái niệm xã
hội, gồm phương thức sản suất, quan hệ, chế độ và các điều kiện xã hội. Ngược lại,
quan niệm thứ 2 nhìn nhận lối sống một cách phiến diện: coi lối sống như cách
suy nghĩ, hành vi, nếp sống nội tâm của con người. Để thay đổi lối sống chỉ cần
giáo dục, biến đổi nếp tư duy cũng như nhu cầu của con người. Quan niệm này mắc
sai lầm trong việc phân tích để thay đổi hành vi. Hành vi có thể phán ánh những
nhận thức của con người nhưng không phải có nhận thức là có hành vi mà còn phụ
thuộc rất nhiều vào môi trường xung quanh. Quan niệm thứ ba: Nêu rõ “đặc trưng của lối sống gồm, những hình thức
của hoạt động sống điển hình của con người, những điều kiện lao động và sinh hoạt,
các mối quan hệ qua lại giữa họ với nhau. Lối sống là tổng hòa của những dạng
hoạt động sống điển hình trong một xã hội nào đó được xem xét thống nhất với
các điều kiện kinh tế - xã hội”(Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009).
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm lối sống
và sự phân biệt các khái niệm về văn hóa lối sống, lối sống văn hóa và lối sống
có văn hóa. Phân nhiều các tác giả nghiên cứu lối sống văn hóa đặt trong bối cảnh
chính trị của Việt Nam để phân tích. Trong nghiên cứu, tác giả lựa chọn khái niệm
lối sống sau đây của Giang Thanh Huyền để tiến hành phân tích trong mối quan hệ
với Văn hóa và vấn đề Biến đổi khí hậu.
“Lối sống là một phạm trù xã hội, khái quát toàn bộ hoạt động sống của
các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của
một hình thái kinh tế- xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời
sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người; trong
sinh hoạt tinh thần và văn hóa” (Giang Thanh Huyền, 2011).
Biểu hiện của lối sống
trên 3 khía cạnh: i, lối sống là một dạng hoạt động sống của con người; ii, hoạt
động sống của con người phụ thuộc chặt chẽ và phương thức sản xuất và điều kiện
sống của con người; iii, lối sống thể hiện đặc trưng riêng của từng cộng đồng
người.
Với quan niệm lối sống
như trên, đặt trong mối quan hệ với khái niệm văn hóa đã phân tích ở trên. Tác
giả quan niệm lối sống gắn với hành vi cụ thể trong đời sống và trong hoạt động
sản xuất bao gồm lối tiêu thụ và lối sản xuất kinh doanh, phân tích khái niệm
văn hóa dưới góc độ nhận thức về giá trị của vấn đề biến đổi khí hậu trong các
bậc thang giá trị.
Theo UNFCCC (Công ước
khung liên hợp quốc về BĐKH) cho rằng: “BĐKH
là một sự thay đổi của khí hậu do hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp của con
người tác động làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu, loại trừ việc
thay đổi khí hậu do tự nhiên được quan sát trong khoảng thời gian tương đương”.
Theo quan niệm về BĐKH này của UNFPCCC đã loại bỏ toàn bộ ảnh hưởng của quy luật
tự nhiên của lớp vỏ địa lý đặc biệt là quy luật nhịp điệu để giải nghĩa hiện tượng
BĐKH.
Ngược lại với định
nghĩa của UNFPCCC ở trên, IPCC (Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu) đưa
ra khái niệm về BĐKH trong đó có tính đến cả hoạt động của quá trình tự nhiên. IPCC
coi “BĐKH là một sự thay đổi trong trạng
thái của khí hậu có thể được xác định bởi những thay đổi trong giá trị trung
bình hoặc sự thay đổi về thuộc tính của nó trong thời gian dài, thường là vài
thập kỷ hoặc lâu hơn. Khí hậu thay đổi có thể là do quy trình nội bộ tự nhiên
hoặc do quá trình bên ngoài, hoặc do con người thay đổi các thành phần trong
khí quyển và trong sử dụng đất” [1].
Như vậy, nguyên nhân của
quá trình tự nhiên của hiện tượng BĐKH là sự khác nhau cơ bản trong 2 định
nghĩa trên và đây cũng là 2 trường phái chính về quan điểm về biến đổi khí hậu.
Trong những thập kỷ trước từ các nhà khoa học trên thế giới còn bàn cãi về việc
BĐKH có phải là do con người hay không và con người đóng góp như thế nào vào hiện
tượng này. Tuy nhiên, từ năm 2008 thông qua báo cáo của IPCC đã thể hiện sự đồng
thuận trong giới khoa học rằng biến đổi khí hậu là có thật và con người là tác
nhân của hiện tượng này.
Trong hai khái niệm
trên, khái niệm của IPCC nói rõ hơn về biểu hiện của BĐKH, đó chính là việc
thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu. Chủ yếu do sự gia tăng các khí thải
gây hiệu ứng nhà kính được quy đổi về hàm lượng CO2 trong không khí.
Theo quy luật thống nhất và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lý, sự thay đổi của khí
quyển sẽ dẫn đến việc thay đổi 2 vòng tuần hoàn cơ bản của trái đất là vòng tuần
hoàn nhiệt và vòng tuần hoàn ẩm. Sự thay đổi các vòng tuần hoàn này dẫn đến sự
gia tăng nhiệt độ khí quyển trung bình và thay đổi lượng mưa theo không gian và
thời gian. Đây chính là 2 biểu hiện cụ thể nhất của biến đổi khí hậu. Đi kèm với
hiện tượng của biến đổi khí hậu là việc gia tăng các hiện tượng thời tiết cực
đoan và tăng mực nước biển.
Lối sống và BĐKH có mối
liên hệ với nhau nhưng đó không phải là mối liên hệ trực tiếp mà là một liên hệ
gián tiếp khá phức tạp, mất nhiều thời gian để giới khoa học xác nhận mối liên
hệ giữa 2 vấn đề này.
Trước hết, lối sống thể
hiện rõ nhất trong lối sản xuất, lối kinh doanh, lối tiêu dùng với các hành vi
cụ thể trong đời sống hàng ngày và trong sản xuất đó chính là hành vi khai thác
tài nguyên (khai tác khoáng sản, khai thác tài nguyên động thực vật, khai thác
thủy năng …), sử dụng tài nguyên (sử dụng nước, sử dụng khoáng sản trong ngày
công nghiệp…) và phát thải rác thải ra môi trường. Tất cả các hành vi khai thác
thác tài nguyên và phát thải rác thải này có ảnh hưởng môi trường địa lí xung
quanh và vượt quá khả năng chịu tải của môi trường tự nhiên. Theo các nghiên cứu
thì để môi trường tiêu thụ hết rác thải mà con người xả ra trong 1 năm (tính
toàn cho năm 2002) cần phải mất 1 năm 2 tháng (Boersema Jan. J., và Reijnders
Lucas, 2008). Như vậy, hoạt động sống của con người trên trái đất đang vượt quá
xa khả năng chịu tải của môi trường tự nhiên, trong khi khả năng chịu tải của
môi trường có hạn, lượng phát thải ngày một tăng dẫn đến gia tăng một cách đột
ngột lượng khí trơ như CO2 và một số khí oxit ni tơ khác dẫn đến hiện
tượng hiệu ứng nhà kính, tăng quá trình giữ nhiệt trong khí quyển trái đất, đây
là nguyên nhân chính của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Mặt khác việc thay đổi cấu
trúc thành phần khí quyển dẫn đến thay đổi vòng tuần hoàn nhiệt và vòng tuần
hoàn ẩm là 2 vòng tuần hoàn cơ bản và quan trọng trên trái đất dẫn đến các hiện
tượng của BĐKH.
Như vậy, việc gia tăng
thành phần các khí trơ mà chủ yếu là CO2 được coi là nguyên nhân dẫn
đến BĐKH trên toàn cầu. Mối quan hệ giữa lối sống và BĐKH được thể hiện thông
qua việc tăng phát thải CO2 nói chung[2] trong
khí quyển. Lối sống có mối quan hệ tác động gián tiếp đến BĐKH hai chiều thông
qua hành vi phát thải rác thải. Trước hết là các hành vi gia tăng phát thải và
khai thác tài nguyên quá mức dẫn đến sự gia tăng nhanh thành phần các khí gây
hiệu ứng nhà kính. Tiếp theo là nhóm hành vi tích cực giúp giảm phát thải, giảm
lượng khí CO2 trong khí quyển.
Ngược lại BĐKH cũng có
tác dụng lại đối với lối sống tiêu dùng, sản suất và kinh doanh thông qua ảnh
hưởng lây truyền trong toàn bộ môi trường địa lý bao xung quanh con người, tác
động đến các quá trình tự nhiên trên trái đất. Những biểu hiện cụ thể của biến
đổi khí hậu đó là sự gia tăng nhiệt độ, mực nước biển và thay đổi về tần suất
cũng như cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như: Bão, lũ lụt, sương
muối, mưa đá …
Báo cáo hàng năm của
IPCC về BĐKH đã tóm gọn những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động của
con người. Các phương án mực nước biển tăng và các giả định khác về sự thay đổi
nhiệt độ đưa ra những dự báo về ảnh hưởng của BĐKH trên phạm vi toàn cầu. Mặc
dù không đưa ra được ngưỡng rõ ràng để xác định đâu là mức “nguy hiểm” hay “an
toàn” nhưng BĐKH và những ảnh hưởng của nó là vô cùng to lớn. Trước hết sẽ ảnh
hưởng đến một loạt các quá trình nối tiếp nhau bao gồm các vấn đề trọng yếu là:
sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực; khủng hoảng nước và tình trạng bất
an ninh về nước; nước biển dâng và nguy cơ thiên tai; Các hệ sinh thái và đa dạng
sinh học; Sức khỏe con người. Thông qua 5 cơ chế này mà BĐKH có thể đẩy lùi cả
quá trình phát triển của con người nếu nhiệt độ độ dự báo tăng 20C
(UNDP, 2008). Các kịch bản BĐKH nếu nhiệt độ tăng lên 3 đến 4 độ C thì 330 triệu
người phải di dời tạm thời hay vĩnh viễn do lũ lụt. Hơn 70 triệu người
Băng-la-đét, 6 triệu người ở vùng đồng bằng thấp của Ai-cập và 22 triệu người ở
Việt Nam có thể bị ảnh hưởng (UNDP, 2008, 10). Rõ ràng BĐKH “là thách thức lâu dài lớn nhất mà con người
phải đối mặt” (Tony Blair, 2006) bởi khẳ năng gây thiệt hại: đến con người,
đến tự nhiên, vật chất, tài chính và xã hội của con người.
Dưới những tác động trực
tiếp từ các hiện tượng của BĐKH con người buộc phải thay đổi lối sống cho phù hợp
với hoàn cảnh khác. Mặc khác, khi con người nhận thức được vấn đề của BĐKH và
nguyên nhân của nó, con người xây dựng các trường trình hành động nhằm ứng phó
với BĐKH về thực chất là các hoạt động nhằm thích ứng với điều kiện của BĐKH và
các hoạt động giảm thiểu phát thải. Các hoạt động thích ứng hay giảm thiểu thể
hiện rõ sự thay đổi của lối sống do BĐKH đặc biệt là trong lối tiêu dùng của cá
nhân và cộng đồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét